Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ SỐNG TRONG THẾ LỢI KHÓ TRÁNH VỌNG NGÔN _ Kinh Aḍḍakaraṇa (Aḍḍakaraṇasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ _ SỐNG TRONG THẾ LỢI KHÓ TRÁNH VỌNG NGÔN _ Kinh Aḍḍakaraṇa (Aḍḍakaraṇasuttaṃ)

Thứ bảy, 11/12/2021, 10:04 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 11.12.2021


SỐNG TRONG THẾ LỢI KHÓ TRÁNH VỌNG NGÔN

Kinh Aḍḍakaraṇa (Aḍḍakaraṇasuttaṃ)

(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ NHẤT) (S.i, 74)

Một trong những hệ luỵ của cuộc sống lắm tiền nhiều của là làm sao gìn giữ và khiến của cải mỗi ngày một tăng thêm. Để bảo vệ và tăng trưởng tài sản người ta thường tránh nói thật. Vọng ngôn là hiện tượng rõ nét trong thế giới tranh danh đoạt lợi. Rất ít người sống trong thế lợi mà giữ lời chân thật. Một vị vua xử án tinh tế dễ nhận ra những tệ nạn tham những hối lộ bóp méo sự thật của những người làm trong ngành tư pháp. Khi trình với Đức Phật thì Ngài cũng xác nhận ý nghĩ đó chính xác và cũng nói thêm vì vọng ngôn mà sa vào khổ cảnh.


SỐNG TRONG THẾ LỢI KHÓ TRÁNH VỌNG NGÔN _ Kinh Aḍḍakaraṇa (Aḍḍakaraṇasuttaṃ)
Bản dịch của HT Thích Minh Châu Bản hiệu đính

Sāvatthinidānaṃ.

Ở tại Sāvatthī.

Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca –

Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:

‘‘idhāhaṃ, bhante, aḍḍakaraṇe [atthakaraṇe (sī. syā. kaṃ. pī.)] nisinno passāmi khattiyamahāsālepi brāhmaṇamahāsālepi gahapatimahāsālepi aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ sampajānamusā bhāsante. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘alaṃ dāni me aḍḍakaraṇena, bhadramukho dāni aḍḍakaraṇena paññāyissatī’’’ti.

-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con ngồi trong pháp đường (để xử kiện), con thấy chính các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, các gia chủ đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; vì nhân các dục, vì duyên các dục, vì nguyên nhân các dục, đã dụng ý nói lời vọng ngôn. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Nay ta đã chán ngấy xử kiện. Nay hãy để cho vị hiền diện (bhadramukha) được có danh tiếng nhờ tài xử kiện."

‘‘(Evametaṃ, mahārāja, evametaṃ mahārāja!) [( ) sī. pī. potthakesu natthi] Yepi te, mahārāja, khattiyamahāsālā brāhmaṇamahāsālā gahapatimahāsālā aḍḍhā mahaddhanā mahābhogā pahūtajātarūparajatā pahūtavittūpakaraṇā pahūtadhanadhaññā kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ sampajānamusā bhāsanti; tesaṃ taṃ bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti. Idamavoca...pe...

-- Thưa Ðại vương, các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các vị Bà-la-môn đại phú, các vị gia chủ đại phú, phú hào có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; vì nhân các dục, vì duyên các dục, vì nhân duyên các dục, đã dụng ý nói lên lời vọng ngôn. Do vậy họ sẽ gánh chịu bất lợi, đau khổ trong một thời gian dài.

‘‘Sārattā kāmabhogesu,

giddhā kāmesu mucchitā;

Atisāraṃ na bujjhanti,

macchā khippaṃva oḍḍitaṃ;

Pacchāsaṃ kaṭukaṃ hoti,

vipāko hissa pāpako’’ti.

Loài Người bị đắm say,

Trong tài sản, trong dục,

Họ tham lam, điên dại,

Trong các dục ở đời.

Không ý thức rõ ràng,

Ðã quá độ say mê,

Chẳng khác gì con cá,

Không thấy đặt bẫy sập.

Về sau họ khổ đau,

Chịu quả báo ác nghiệp.

Say đắm trong dục lạc,

Của giàu sang phú túc,

Không ý thức được rằng,

Đã lạc bước quá xa,

Giống cá sa vào lưới,

Chịu đau khổ về sau,

Do ác nghiệp đã làm.


Sārattā kāmabhogesu đắm say trong dục lạc và giàu sang
giddhā kāmesu mucchitā tham lam điên dại trong dục vọng
Atisāraṃ na bujjhanti họ không nhận ra đã đi quá xa
macchā khippaṃva oḍḍitaṃ giống như cá sa vào bẫy lưới
Pacchāsaṃ kaṭukaṃ hoti bị đau khổ về sau
vipāko hissa pāpako’’ti chịu quả xấu của ác hạnh

Chữ bhadramukha trong câu cuối của vua Pasenadi chỉ cho một vị đại diện đáng trọng thay mặt nhà vua xử kiện. Có hai bản Sớ giải cung cấp hai chi tiết khác nhau. Theo Kinh Bổn Sanh số 261 thì nhà vua muốn nói hoàng từ Vidụ̄dạbha trong lúc Kinh Bổn Sanh số 465 thì nói đó là nguyên soái Bandhula. Theo sử thì cả hai đều có lúc nắm giữ binh quyền.

Theo Sớ giải thì vua Pasenadi nói lên ý nghĩ của mình khi thuật lại câu chuyện tại pháp đình mà nhà vua là người đứng ra xử kiện. Rất dễ dàng để thấy các quan một khi đã nhận hối lộ thì tìm cách nói tốt hay giảm tội cho các phạm nhân mà ít khi nhìn bản án với công tâm. Tất cả đều vì sự chi phối của đồng tiền như sự trạng “đa kim ngân phá luật lệ”.

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Hiệu đính và biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

7. Aḍḍakaraṇasuttaṃ [Mūla]

118. Sāvatthinidānaṃ. Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idhāhaṃ, bhante, aḍḍakaraṇe [atthakaraṇe (sī. syā. kaṃ. pī.)] nisinno passāmi khattiyamahāsālepi brāhmaṇamahāsālepi gahapatimahāsālepi aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ sampajānamusā bhāsante. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘alaṃ dāni me aḍḍakaraṇena, bhadramukho dāni aḍḍakaraṇena paññāyissatī’’’ti.

‘‘(Evametaṃ, mahārāja, evametaṃ mahārāja!) [( ) sī. pī. potthakesu natthi] Yepi te, mahārāja, khattiyamahāsālā brāhmaṇamahāsālā gahapatimahāsālā aḍḍhā mahaddhanā mahābhogā pahūtajātarūparajatā pahūtavittūpakaraṇā pahūtadhanadhaññā kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇaṃ sampajānamusā bhāsanti; tesaṃ taṃ bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti. Idamavoca...pe...

‘‘Sārattā kāmabhogesu, giddhā kāmesu mucchitā;

Atisāraṃ na bujjhanti, macchā khippaṃva oḍḍitaṃ;

Pacchāsaṃ kaṭukaṃ hoti, vipāko hissa pāpako’’ti.

7. Aḍḍakaraṇasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

118. Sattame kāmahetūti kāmamūlakaṃ. Kāmanidānanti kāmapaccayā. Kāmādhikaraṇanti kāmakāraṇā. Sabbāni hetāni aññamaññavevacanāneva. Bhadramukhoti sundaramukho. Ekadivasaṃ kira rājā aḍḍakaraṇe nisīdi. Tattha paṭhamataraṃ lañjaṃ gahetvā nisinnā amaccā assāmikepi sāmike kariṃsu. Rājā taṃ ñatvā – ‘‘mayhaṃ tāva pathavissarassa sammukhāpete evaṃ karonti, parammukhā kiṃ nāma na karissanti? Paññāyissati dāni viṭaṭūbho senāpati sakena rajjena, kiṃ mayhaṃ evarūpehi lañjakhādakehi musāvādīhi saddhiṃ ekaṭṭhāne nisajjāyā’’ti cintesi. Tasmā evamāha. Khippaṃva oḍḍitanti kuminaṃ viya oḍḍitaṃ. Yathā macchā oḍḍitaṃ kuminaṃ pavisantā na jānanti, evaṃ sattā kilesakāmena vatthukāmaṃ vītikkamantā na jānantīti attho. Sattamaṃ.

Ý kiến bạn đọc