- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 23.3.2022
HIỆN THỰC VÀ XA VỜI
Kinh Số Nhiều (Sambahulasuttaṃ)
(CHƯƠNG IV. TƯƠNG ƯNG ÁC MA, PHẨM THỨ BA) (S.i, 117)
Đây là câu chuyện chư tỳ kheo gặp Ma mà không biết. Tuy vậy nhờ sự hiểu biết và lòng tin kiên cố ở Phật nên không bị Ma chi phối. Điều mà Ác ma nói vốn rất thấu tình đạt lý theo quan niệm người đời: trẻ sống thụ hưởng, già thì lo tu. Nhưng Phật Pháp cho một cái nhìn khác: hưởng thụ dục lạc vui ít, khổ nhiều, nguy hiểm nhiều hơn và sự thật nầy không nằm khung thời gian già hay trẻ. Thật ra không phải dễ để nhận thức được cái gì thiết thực cho cuộc sống giữa trăm muôn ngàn thứ phải làm trong cuộc sống. Người có trí lãnh hội lời Phật dạy tìm được giá trị đích thực ngay trong hiện tại.
Evaṃ me sutaṃ – Tôi được nghe như vầy |
|
ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati silāvatiyaṃ. Thuở ấy Đức Thế Tôn trú giữa những người Sakya tại Silāvatī. |
|
Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharanti. Bấy giờ gần Đức Thế Tôn có nhiều tỷ khưu sống nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng. |
|
Atha kho māro pāpimā brāhmaṇavaṇṇaṃ abhinimminitvā mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṃ gahetvā yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū etadavoca – Rồi Ác ma biến thành một ông lão bà la môn có búi tóc lớn, mặc áo bằng da linh dương, thân hình gầy cong như rui mè nhà cũ, hơi thở phều phào, tay cầm gậy udumbara. Ác ma đi tới các tỳ khưu và nói rằng: |
|
‘‘daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvitthā’’ti. Chư Tôn giả xuất gia thời niên thiếu, tóc còn đen, thanh xuân tràn đầy, trong thời sung mãn của cuộc đời lại không hưởng thụ dục lạc. Hãy vui hưởng hạnh phúc kiếp người, chớ bỏ rơi cái trước mắt để mưu cầu những gì xa xôi. |
|
‘‘Na kho mayaṃ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṃ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’’ti. -- Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ rơi cái trước mắt để mưu cầu những gì xa xôi. Chúng tôi từ bỏ truy cầu cái xa xôi mà tập trung vào cái trước mắt. Đức Thế Tôn dạy rằng các dục tiêu ngốn thời gian, đầy dẫy đau khổ, nhiều hệ luỵ, hiểm hoạ càng nhiều hơn. Chánh pháp nầy thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, có khả năng hướng thượng, người trí tự mình tỏ ngộ. |
|
Evaṃ vutte, māro pāpimā sīsaṃ okampetvā jivhaṃ nillāletvā tivisākhaṃ nalāṭe nalāṭikaṃ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkāmi. Khi nghe nói vậy Ác ma lắc đầu, le lưỡi, trán hiện ba nếp nhăn, chống gậy bỏ đi. |
|
Atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: |
|
‘‘idha mayaṃ, bhante, bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharāma. Atha kho, bhante, aññataro brāhmaṇo mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṃ gahetvā yena mayaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā amhe etadavoca – ‘daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvitthā’ti. Evaṃ vutte, mayaṃ, bhante, taṃ brāhmaṇaṃ etadavocumha – ‘na kho mayaṃ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṃ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti. Evaṃ vutte, bhante, so brāhmaṇo sīsaṃ okampetvā jivhaṃ nillāletvā tivisākhaṃ nalāṭe nalāṭikaṃ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkanto’’ti. Bạch Thế Tôn, chúng con sống gần Đức Thế Tôn với sống nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng. Có một ông lão bà la môn có búi tóc lớn, mặc áo bằng da linh dương, thân hình gầy cong như rui mè nhà cũ, hơi thở phều phào, tay cầm gậy udumbara đi tới chúng con và nói rằng: - Chư Tôn giả xuất gia thời niên thiếu, tóc còn đen, thanh xuân tràn đầy, trong thời sung mãn của cuộc đời lại không hưởng thụ dục lạc. Hãy vui hưởng hạnh phúc kiếp người, chớ bỏ rơi cái trước mắt để mưu cầu những gì xa xôi. - Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ rơi cái trước mắt để mưu cầu những gì xa xôi. Chúng tôi không màng đến cái xa xôi mà tập trung vào cái trước mắt. Đức Thế Tôn dạy rằng các dục tiêu ngốn thời gian, đầy dẫy đau khổ, nhiều hệ luỵ, hiểm hoạ càng nhiều hơn. Chánh pháp nầy thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, có khả năng hướng thượng, người trí tự mình tỏ ngộ. Khi nghe nói vậy ông lão bà la môn lắc đầu, le lưỡi, trán hiện ba nếp nhăn, chống gậy bỏ đi. |
|
‘‘Neso, bhikkhave, brāhmaṇo. Māro eso pāpimā tumhākaṃ vicakkhukammāya āgato’’ti. -- Này các Tỳ khưu, người ấy không phải là Bà-la-môn, chính là Ác ma đi đến để làm mờ mắt các thầy. |
|
Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – Rồi ngay khi ấy Thế Tôn nghĩ đến ý nghĩa nầy nói lên kệ ngôn: |
|
‘‘Yo dukkhamaddakkhi yatonidānaṃ, Kāmesu so jantu kathaṃ nameyya; Upadhiṃ viditvā saṅgoti loke, Tasseva jantu vinayāya sikkhe’’ti. |
Ai thấy cội nguổn khổ, Sao mong cầu dục lạc? Biết sở y trói buộc, Tu tập đoạn tận chúng. |
‘‘Yo dukkhamaddakkhi yatonidānaṃ | Khi một người thấy được đau khổ đến từ đâu |
Kāmesu so jantu kathaṃ nameyya | Sao có thể hướng cầu dục lạc |
Upadhiṃ viditvā saṅgoti loke | Hiểu rõ sở y là trói trăn trong đời |
Tasseva jantu vinayāya sikkhe’’ti | Vị ấy tu tập để nhỗ tận chúng. |
Gậy bằng gỗ udumbara được các vị bà la môn sử dụng trong các buổi tế lễ. Loại gậy gỗ nầy là biểu tượng của đời sống tu hành thiểu dục (appicchabhāva).
Cụm từ “lắc đầu, le lưỡi, trán hiện ba nếp nhăn, chống gậy bỏ đi” được tìm thấy trong nhiều bài kinh chỉ cho tâm thái chản nản bỏ cuộc.
Trong bài kinh nầy Ác ma có lời khuyên dựa trên quan niệm rất phổ biến trong đạo Bà la môn là thời trẻ lập gia đình hưởng thụ dục lạc, rồi khi tới tuổi lão niên tập trung cho đời sống tinh thần.
Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
-ooOoo-
1. Sambahulasuttaṃ [Mūla]
157. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati silāvatiyaṃ. Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharanti. Atha kho māro pāpimā brāhmaṇavaṇṇaṃ abhinimminitvā mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṃ gahetvā yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū etadavoca – ‘‘daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvitthā’’ti. ‘‘Na kho mayaṃ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṃ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’’ti. Evaṃ vutte, māro pāpimā sīsaṃ okampetvā jivhaṃ nillāletvā tivisākhaṃ nalāṭe nalāṭikaṃ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkāmi.
Atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha mayaṃ, bhante, bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharāma. Atha kho, bhante, aññataro brāhmaṇo mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṃ gahetvā yena mayaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā amhe etadavoca – ‘daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvitthā’ti. Evaṃ vutte, mayaṃ, bhante, taṃ brāhmaṇaṃ etadavocumha – ‘na kho mayaṃ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṃ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti. Evaṃ vutte, bhante, so brāhmaṇo sīsaṃ okampetvā jivhaṃ nillāletvā tivisākhaṃ nalāṭe nalāṭikaṃ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkanto’’ti.
‘‘Neso, bhikkhave, brāhmaṇo. Māro eso pāpimā tumhākaṃ vicakkhukammāya āgato’’ti. Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –
‘‘Yo dukkhamaddakkhi yatonidānaṃ,
Kāmesu so jantu kathaṃ nameyya;
Upadhiṃ viditvā saṅgoti loke,
Tasseva jantu vinayāya sikkhe’’ti.
1. Sambahulasuttavaṇṇanā [Mūla]
157. Tatiyavaggassa paṭhame jaṭaṇḍuvenāti jaṭācumbaṭakena. Ajinakkhipanivatthoti sakhuraṃ ajinacammaṃ ekaṃ nivattho ekaṃ pāruto. Udumbaradaṇḍanti appicchabhāvappakāsanatthaṃ īsakaṃ vaṅkaṃ udumbaradaṇḍaṃ gahetvā. Etadavocāti loke brāhmaṇassa vacanaṃ nāma sussūsanti, brāhmaṇesupi pabbajitassa, pabbajitesupi mahallakassāti mahallakabrāhmaṇassa pabbajitavesaṃ gahetvā padhānabhūmiyaṃ kammaṃ karonte te bhikkhū upasaṅkamitvā hatthaṃ ukkhipitvā etaṃ ‘‘daharā bhavanto’’tiādivacanaṃ avoca. Okampetvāti hanukena uraṃ paharanto adhonataṃ katvā. Jivhaṃ nillāletvāti kabaramahājivhaṃ nīharitvā uddhamadho ubhayapassesu ca lāletvā. Tivisākhanti tisākhaṃ. Nalāṭikanti bhakuṭiṃ, nalāṭe uṭṭhitaṃ valittayanti attho. Pakkāmīti tumhe jānantānaṃ vacanaṃ akatvā attanova tele paccissathāti vatvā ekaṃ maggaṃ gahetvā gato. Paṭhamaṃ.