Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CHÁNH PHÁP CẦN ĐƯỢC TUYÊN THUYẾT - Kinh Visākha (Visākhasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CHÁNH PHÁP CẦN ĐƯỢC TUYÊN THUYẾT - Kinh Visākha (Visākhasuttaṃ)

Thứ năm, 18/01/2024, 20:15 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 17.1.2024

CHÁNH PHÁP CẦN ĐƯỢC TUYÊN THUYẾT

Kinh Visākha (Visākhasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương X. Tương Tỷ Khưu (S.ii,280)

Đạo chân thực được hiển bày qua sự khéo trình bày hay sống trong im lặng. Đức Phật dạy cả hai. Với quần chúng, sự im lặng không đủ để diễn đạt chánh pháp, mà chánh pháp cần được tuyên lưu. Không thuyết thì không ai biết đâu là chánh đạo, đâu là tà mị. Hơn nữa, ở đây, Đức Phật dạy: Lời khéo thuyết là biểu hiện của bậc trí, bởi vì chánh pháp chính là ngọn cờ của hiền nhân.

Kinh văn

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ. Tena kho pana samayena āyasmā visākho pañcālaputto upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti, poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāya.

Tôi được nghe như vầy,

Một thuở Đức Thế Tôn ngự tại Vesāli (Tỳ-xá-ly), Mahāvana (Ðại Lâm) ở Trùng Các giảng đường.

Lúc bấy giờ Tôn giả Visākha thuộc dòng họ Pañcāla, thuyết pháp trong hội trường. Pháp thoại được thuyết với ý nghĩa trong sáng thích hợp, buông xả, bằng âm thanh rõ ràng, dễ nghe, thân thiện, mạch lạc. Khiến cho chư tỳ khưu hoan hỷ, phấn khởi.

Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena upaṭṭhānasālā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘ko nu kho, bhikkhave, upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāyā’’ti? ‘‘Āyasmā, bhante, visākho pañcālaputto upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti, poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāyā’’ti

Rồi Đức Thế Tôn vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến giảng đường; sau khi ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, đã hỏi chư tỳ khưu:

Này chư Tỳ khưu, ai đã thuyết pháp trong hội trường với ý nghĩa trong sáng thích hợp, buông xả, bằng âm thanh rõ ràng, dễ nghe, thân thiện, mạch lạc. Khíến cho chư tỳ khưu hoan hỷ, phấn khởi?

-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Visākha thuộc dòng họ Pañcāla.

Atha kho bhagavā āyasmantaṃ visākhaṃ pañcālaputtaṃ āmantesi – ‘‘sādhu sādhu, visākha, sādhu kho tvaṃ, visākha, bhikkhū dhammiyā kathāya sandassesi…pe… atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāyā’’ti.

Rồi Đức Thế Tôn cho gọi Tôn giả Visākha, dòng họ Pañcāla và nói:

-- Lành thay, lành thay, Visākha! Lành thay, này Visākha! Thầy đã thuyết pháp trong hội trường với ý nghĩa trong sáng thích hợp, buông xả, bằng âm thanh rõ ràng, dễ nghe, thân thiện, mạch lạc. Khiến cho chư tỳ khưu hoan hỷ, phấn khởi.

Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā

‘‘Nābhāsamānaṃ jānanti, missaṃ bālehi paṇḍitaṃ; Bhāsamānañca jānanti, desentaṃ amataṃ padaṃ.

‘‘Bhāsaye jotaye dhammaṃ, paggaṇhe isinaṃ dhajaṃ; Subhāsitadhajā isayo, dhammo hi isinaṃ dhajo’’ti.

Đức Thế Tôn thuyết như vậy. Đấng Thiện Thệ, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Trí giả giữa quần mê

Không nói không ai biết

Khi nghe đạo bất tử

Thì thính chúng nhận ra

Hãy nói và giảng pháp

Hãy giương cờ thánh đức

Pháp thiện thuyết hiển bày

Ai là bậc trí giả

Bởi vì chính chánh đạo

Ngọn cờ của hiền nhân

Chú Thích

Tôn giả Visākha, còn được gọi là Pañcāliputta, là con của một lãnh chúa (mandalikarājā) xứ Magadha. Mẹ của ngài là công chúa con vua Pañcāla. Một lần Đức Thế Tôn ngự về nơi ngài sinh sống. Được nghe Phật thuyết pháp, phát tâm xuất gia, không bao lâu chứng vô thượng thánh quả. Trong Tăng Chi Bộ, Tương Ưng Bộ và Trưởng Lão Tăng Kệ đều đề cập đến khả năng thuyết pháp đặc biệt của ngài.

 

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

7. Visākhasuttaṃ

241. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ. Tena kho pana samayena āyasmā visākho pañcālaputto upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti, poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāya.

 Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena upaṭṭhānasālā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘ko nu kho, bhikkhave, upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāyā’’ti? ‘‘Āyasmā, bhante, visākho pañcālaputto upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti, poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāyā’’ti.

Atha kho bhagavā āyasmantaṃ visākhaṃ pañcālaputtaṃ āmantesi – ‘‘sādhu sādhu, visākha, sādhu kho tvaṃ, visākha, bhikkhū dhammiyā kathāya sandassesi…pe… atthassa viññāpaniyā pariyāpannāya anissitāyā’’ti.

Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –

‘‘Nābhāsamānaṃ jānanti, missaṃ bālehi paṇḍitaṃ;

Bhāsamānañca jānanti, desentaṃ amataṃ padaṃ.

‘‘Bhāsaye jotaye dhammaṃ, paggaṇhe isinaṃ dhajaṃ;

Subhāsitadhajā isayo, dhammo hi isinaṃ dhajo’’ti. sattamaṃ

7. Visākhasuttavaṇṇanā

241. Sattame poriyā vācāyāti puravāsīnaṃ nagaramanussānaṃ vācāsadisāya aparihīnakkharapadāya madhuravācāya. Vissaṭṭhāyāti asandiddhāya apalibuddhāya, pittasemhehi anupahatāyāti attho. Anelagalāyāti yathā dandhamanussā mukhena kheḷaṃ gaḷantena vācaṃ bhāsanti, na evarūpāya, atha kho niddosāya visadavācāya. Pariyāpannāyāti catusaccapariyāpannāya cattāri saccāni amuñcitvā pavattāya. Anissitāyāti vaṭṭanissitaṃ katvā akathitāya. Dhammo hi isinaṃ dhajoti navavidhalokuttaradhammo isīnaṃ dhajo nāmāti. Sattamaṃ


 

Ý kiến bạn đọc