- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: Phạn ngữ “HỌC PĀLI TRONG 32 BÀI”
Bài học ngày 14.1.2022
BÀI 25. BIẾN CÁCH DANH TỪ NAM TÁNH VĨ NGỮ I
1. Biến cách danh từ nam tánh vĩ ngữ i
Aggi = lửa | ||
Số ít | Số nhiều | |
Chủ cách | aggi | aggī / aggayo |
Đối cách | aggiṃ | aggī / aggayo |
Sở dụng cách | agginā | aggīhi (aggībhi) |
Xuất xứ cách | agginā | aggīhi (aggībhi) |
Chỉ định cách | aggino / aggissa | aggīnaṃ |
Sở thuộc cách | aggino / aggissa | aggīnaṃ |
Định sở cách | aggimhi / aggismiṃ | aggīsu |
Hô cách | aggi | aggī / aggayo |
2. Danh từ nam tánh tận cùng bằng -i
muni / isi | – bậc hiền thánh, bậc minh triết |
kavi | – thi sĩ |
ari | – kẻ thù |
bhūpati | – nhà vua |
pati | – người chồng, người chủ |
gahapati | – gia chủ |
adhipati | – người lãnh đạo, minh chủ |
atithi | – người khách |
vyādhi | – sự bệnh hoạn |
udadhi | – đại dương, biển cả |
nidhi | – kho báu |
vīhi | – lúa gạo |
kapi | – con khỉ |
ahi | – mảng xà |
dīpi | – con báo |
ravi | – mặt trời |
giri | – núi |
maṇi | – ngọc, như ý bảo châu |
asi | – thanh gươm |
rāsi | – một đống (lúa, thóc…) |
pāṇi | – bàn tay |
kuccha | – bụng |
muṭṭhi | – cái búa, nắm đấm |
PĀLI VUI ĐỂ HỌC
Lòng Người Khó Biết
Tâm thức là lãnh vực rộng lớn trong Phật học. Riêng về từ ngữ rất đa dạng cần sự tinh nghĩa. Những học giả Phương Tây thường nói rằng trong Phạm ngữ có rất nhiều khái niệm về tâm lý mà chuyển dịch sang ngôn ngữ khác rất khó tìm được chữ tương đương.
Phật học định nghĩa tâm là biết cảnh. Thế nhưng cái biết của tưởng tri, thức tri và tuệ tri hoàn toàn khác nhau.
Thắng Pháp trong sự trình bày về các thuộc tánh lại nói về những khía cạnh tâm lý cùng sanh trong một sát na tâm thí dụ sự cảm nhận của “thọ”, sự chủ tâm tạo tác của “tư”, sự hướng tâm suy nghĩ của “tầm”. Tất cả nói về thế giới vĩ mô đầy tế nhị. Trong Phật học thì chữ tư duy (saṅkappa) và tầm (vitakka) đều chỉ chung cho sự suy nghĩ hay hướng tâm.
Có những thuật ngữ tâm lý, dù là thuật ngữ, thì vẫn phải rất ư là cẩn thận thí dụ chữ manasikāra thường dịch là “tác ý” như nếu là “tác ý tâm sở (manasikāracetasika)” thì mang nghĩa rất khác với với “khéo tác ý (yoniso manasikāra). Rắc rối hơn nữa cả hai đều không có nghĩa là “ý định” trong cách nói tác ý bình thường.
Ngay cả những từ vựng thường được hiểu là “đồng nghĩa” nhưng phân tích kỹ thì rất nhiều “bất đồng”. Có những bản liệt kê bắt đầu với “tâm nhãn thức, tâm nhĩ thức… cuối cùng là tâm ý thức”. Tâm ý thức có thể được hiểu là một thứ tâm ngoài 5 giác quan biết cảnh vật chất. Thế nhưng cả ba chữ “tâm”, “ý”, và “thức” thường được dùng để chỉ chuyển ba chữ citta, mana, và viññāna là ba thuật ngữ riêng biệt. Chữ citta - thường dịch là tâm để nói chung về tâm lý (còn gọi là danh pháp –nāma) đối nghĩa với sắc – rūpa); chữ nầy cũng dùng để nói riêng cho hai phần của danh pháp là tâm và tâm sở (thuộc tánh của tâm). Cũng nên nói thêm là khi nói về thuộc tánh của tâm, hay tâm sở, thì xài chữ ceta thay vì citta. Trong lúc chữ viññāna – thường dịch là thức để nói về các giác quan như nhãn thức, nhĩ thức… Còn chữ mana – thường dịch là ý thì chỉ cho thứ giác quan nằm ngoài ngũ quan gọi là ý thức. (Nên phân rõ là ý thức hay thức thứ sáu trong Phật học rất khác nghĩa với cái gọi là “giác quan thứ sáu” theo thường thức (….). Dù có khác biệt trong cách dùng nhưng nếu hỏi các vị pháp sư thì vẫn thường nhận được câu trả lời: tâm, ý, thức đều đồng nghĩa. Thực tế thì có khi đồng nghĩa, có khi khác nghĩa.
Người ta thường nói sống theo vật chất là phức tạp mà nghiêng về tinh thần đơn giản hơn. Thật sự không hẳn là vậy. Cũng có câu: Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người. Câu ca dao nầy có thể hiểu nhiều cách. Nhưng áp dụng ở đây về ngôn ngữ thì có thể nói: thuật ngữ vể tâm lý trong Phật học rắc rối vô cùng.
PĀLI TRONG NGHI THỨC NHẬT HÀNH
Xin Tuỳ Hỷ Phước Hạnh |
|
Ettāvatā ca amhehi sambhataṃ puññasampadaṃ sabbe devānumodantu sabbasampattisiddhiyā dānaṃ dadantu saddhāya sīlaṃ rakkhantu sabbadā bhāvanābhiratā hontu gacchantu devatāgatā |
Chư thiên đã vân tập Xin tùy hỷ phước lành Do chúng tôi đã tạo Biết cho với niềm tin Biết hộ trì giới hạnh Biết lạc trú trong thiền Ðược cát tường như ý Rồi phản hồi thiên xứ. |
Bài tập 25
Dịch tiếng Pāli sang tiếng Việt
1. Munayo sīlaṃ rakkhantā girimhi guhāsu vasiṃsu
2. Ācariyena saddhiṃ viharanto kavi isi hoti.
3. Būpati asinā ariṃ paharitvā māresi.
4. Pati bhariyāya paṭiyāditaṃ odanaṃ bhuñjitvā khettaṃ agami.
5. Sappurisā gahapatayo bhariyāhi ca puttehi ca gehesu vasantā sukhaṃ vindanti.
6. Nidhiṃ pariyesanto adhipati sahāyakehi saddhiṃ dīpaṃ agacchi.
Dịch Tiếng Việt sang tiếng Pāli
1. Những người chồng mang về các viên ngọc từ hòn đảo cho những người vợ của họ.
2. Bệnh tật bức bách con người sống trong đời.
3. Người đàn bà ngồi trên đất đong gạo bằng cái đấu.
4. Những gia chủ làm ác nghiệp không đãnh lễ các bậc hiền thánh.
5. Nếu bạn đào kho báu sẽ tìm thấy những viên ngọc.
6. Tôi đã giặt những y phục thường do vợ giặt giũ.
Biên soạn giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng