TU TÂM TỐT HƠN HÀNH XÁC _ Kinh Khó Làm (hay Con rùa) (Dukkarasuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM VƯỜN HOAN HỶ (S.i,7) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 8.5.2021

TU TÂM TỐT HƠN HÀNH XÁC _ Kinh Khó Làm (hay Con rùa) (Dukkarasuttaṃ) _ CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM VƯỜN HOAN HỶ (S.i,7) _ Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA _ Bài học ngày 8.5.2021

Thứ bảy, 08/05/2021, 15:31 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Giáo trình TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 8.5.2021

TU TÂM TỐT HƠN HÀNH XÁC

Kinh Khó Làm (hay Con rùa) (Dukkarasuttaṃ)

CHƯƠNG I. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN, PHẨM VƯỜN HOAN HỶ (S.i,7)

Đối với nhiều người, trọng tâm của đời sống tu hành là khổ tu. Trong văn hoá và tôn giáo Ấn Độ thì khổ hạnh được xem là tối thượng phạm hạnh. Người ta chỉ chấp thủ vào sự hành xác mà không có phương pháp tu dưỡng nội tâm. Tệ hại hơn nữa là những cách tu khổ hạnh làm tôn “cái tôi” với sự khen mình chê người. Đức Phật luôn nhắc nhở sự điều phục tâm ý và đời sống vô tranh, bất hại mới thật sự là những then chốt của đời sống tu hành.

''Dukkaraṃ duttitikkhañca,

Khó làm, khó kham nhẫn,

abyattena ca sāmaññaṃ.

Thiếu trí, hành Sa-môn,

Bahūhi tattha sambādhā,

Chỗ kẻ ngu thối đọa,

yattha bālo visīdatīti..

Chỗ ấy đầy chướng ngại.

''Katihaṃ careyya sāmaññaṃ,

Bao ngày hành Sa-môn

cittaṃ ce na nivāraye.

Nếu tâm không chế ngự,

Pade pade visīdeyya,

Mỗi bước, phải sa đọa,

saṅkappānaṃ vasānugoti..

Nô lệ cho suy tư,

(Thế Tôn)

''Kummova aṅgāni sake kapāle,

Như rùa rút chân cẳng,

Trong mai rùa của mình.

Samodahaṃ bhikkhu manovitakke.

Vị Tỷ-kheo cũng vậy,

Thâu nhiếp mọi suy tư,

Anissito aññamaheṭhayāno,

Không tham dính vật gì,

Không làm hại người nào,

Parinibbuto nūpavadeyya kañcīti..

Hoàn toàn thật tịch tịnh,

Không chỉ trích một ai.

Bản hiệu đính

Lối khổ hạnh bất kham

Với đầy dẫy chướng ngại

Kẻ thiểu trí thất bại

Khó chịu đựng, khó làm

Mỗi ngày, mỗi ngày qua

Người khổ hạnh hành xác

Từng bước vào đoạ lạc

Tư duy không điều phục

Ai thúc liễm tâm ý

Như rùa rút vào mai

Sống bất hại, tự tại

Không chê bai, tham chấp

Dukkara: Khổ hạnh, làm những điều khó

Duttitikkhañca: khó kham nhẫn

Abyattena: thiếu trí, không hiểu biết

sāmañña: tu hành, sa môn hạnh

visīdati: Thối đoạ, thất bại

cittaṃ ce na nivāraye: tâm không điều phục, không tu dưỡng nội tâm

saṅkappānaṃ vasānugoti: nô lệ cho tư duy

Kummova: rùa

Kapāle: mai rùa

Samodahati: giữ gìn, xếp gọn

Manovitakke: ý nghĩ

Anissito: không lệ thuộc, tự tại

Parinibbuto: tịch tịnh

Nūpavadeyya: Không chê bai (khen mình chê người)

Aññamaheṭhayāno: không hại ai

Người tu thường rơi vào sự lập hạnh nặng về hình thức hay hành xác. Nếu sự khổ tu chỉ là chấp kiến và chấp ngã thì sự thất bại là khó tránh khỏi. Đời phạm hạnh theo Đức Phật dạy lấy sự tu tập tâm ý làm trọng điểm. Thúc liễm tư duy, sống bất hại, tịch tịnh, không khen mình chê người là những điều không thể thiếu trong đời sống tu hành đúng nghĩa.

Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu

Biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

7. Dukkarasuttaṃ [Mūla]

17. ''Dukkaraṃ duttitikkhañca, abyattena ca sāmaññaṃ.

Bahūhi tattha sambādhā, yattha bālo visīdatīti..

''Katihaṃ careyya sāmaññaṃ, cittaṃ ce na nivāraye.

Pade pade visīdeyya, saṅkappānaṃ vasānugoti..

''Kummova aṅgāni sake kapāle,

Samodahaṃ bhikkhu manovitakke.

Anissito aññamaheṭhayāno,

Parinibbuto nūpavadeyya kañcīti..

7. Dukkarasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

17. Sattame duttitikkhanti dukkhamaṃ duadhivāsiyaṃ. Abyattenāti bālena. Sāmaññanti samaṇadhammo. Iminā devatā idaṃ dasseti – yaṃ paṇḍitā kulaputtā dasapi vassāni vīsatipi saṭṭhipi vassāni dante abhidantamādhāya jivhāya tāluṃ āhaccapi cetasā cittaṃ abhiniggaṇhitvāpi ekāsanaṃ ekabhattaṃ paṭisevamānā āpāṇakoṭikaṃ brahmacariyaṃ carantā sāmaññaṃ karonti. Taṃ bhagavā bālo abyatto kātuṃ na sakkotīti. Bahū hi tattha sambādhāti tasmiṃ sāmaññasaṅkhāte ariyamagge bahū sambādhā maggādhigamāya paṭipannassa pubbabhāge bahū parissayāti dasseti.

Cittañce na nivārayeti yadi ayoniso uppannaṃ cittaṃ na nivāreyya, kati ahāni sāmaññaṃ careyya? Ekadivasampi na careyya. Cittavasiko hi samaṇadhammaṃ kātuṃ na sakkoti. Pade padeti ārammaṇe ārammaṇe. Ārammaṇañhi idha padanti adhippetaṃ. Yasmiṃ yasmiṃ hi ārammaṇe kileso uppajjati, tattha tattha bālo visīdati nāma. Iriyāpathapadampi vaṭṭati. Gamanādīsu hi yattha yattha kileso uppajjati, tattha tattheva visīdati nāma. Saṅkappānanti kāmasaṅkappādīnaṃ.

Kummo vāti kacchapo viya. Aṅgānīti gīvapañcamāni aṅgāni. Samodahanti samodahanto, samodahitvā vā. Manovitakketi manamhi uppannavitakke. Ettāvatā idaṃ dasseti – yathā kummo soṇḍipañcamāni aṅgāni sake kapāle samodahanto siṅgālassa otāraṃ na deti, samodahitvā cassa appasayhataṃ āpajjati, evamevaṃ bhikkhu manamhi uppannavitakke sake ārammaṇakapāle samodahaṃ mārassa otāraṃ na deti, samodahitvā cassa appasayhataṃ āpajjatīti. Anissitoti taṇhādiṭṭhinissayehi anissito hutvā. Aheṭhayānoti avihiṃsamāno. Parinibbutoti kilesanibbānena parinibbuto. Nūpavadeyya kañcīti yaṃkiñci puggalaṃ ācāravipattiādīsu yāya kāyaci maṅkuṃ kātukāmo hutvā na vadeyya, ‘‘kālena vakkhāmi no akālenā’’tiādayo pana pañca dhamme ajjhattaṃ upaṭṭhapetvā ullumpanasabhāvasaṇṭhitena cittena kāruññataṃ paṭicca vadeyyāti.

Dukkarasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.

Ý kiến bạn đọc