- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 7.3.2023
THẬT BIẾT THÌ HỎI THẾ NÀO CŨNG TRẢ LỜI ĐƯỢC
Kinh Kaḷāra (Kaḷārasuttaṃ)
Tập II – Thiên Nhân Duyên
Chương I. Tương Ưng Nhân Duyên (b) - Phẩm Kalāra – Vị Sát Đế Lỵ (S. ii, 50)
Có lần Tôn giả Ānanda, bấy giờ còn là bậc sơ quả, bạch Phật về sự hoan hỷ do thấy rõ lý duyên khởi. Đức Phật cảnh giác là giáo lý duyên khởi không đơn giản để hiểu. Nhưng đối với Tôn giả Sāriputta thì Đức Phật dạy rằng dù Ngài có hỏi thế nào về duyên khởi thì Tôn giả Sāriputta vẫn có thể trả lời do sự tuệ giác quán triệt của một bậc đại trí thượng thủ thinh văn. Như một người sống quá lâu và quá biết về một lâu đài nếu có ai hỏi cách nào về những lối đi ra vào thì đều có thể trả lời vì không phải do nghe mà nói lại mà vì bạn đã sống trong toà lâu đài nhiều năm và thật sự thông hiều các lối ra vào. Cái biết do tự thân chứng nghiệm rất khác với cái biết do nghe lại hay do suy diễn.
Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘moḷiyaphagguno, āvuso sāriputta, bhikkhu sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattoti. Na hi nūna so āyasmā imasmiṃ dhammavinaye assāsamalatthāti. Tena hāyasmā sāriputto imasmiṃ dhammavinaye assāsaṃ patto’’ti?
‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, kaṅkhāmī’’ti. ‘‘Āyatiṃ, panāvuso’’ti?
‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, vicikicchāmī’’ti.
Ngự ở Sāvatthi.
Bấy giờ tỳ khưu Kaḷārakhattiya (Kalāra giòng sát đế lỵ), đi đến Tôn giả Sāriputta. Sau khi nói lên những lời thăm hỏi thân thiện ngồi xuống một bên.
Tỳ khưu Kaḷārakhattiya nói với Tôn giả Sāriputta:
-- Hiền giả Sāriputta, tỳ khưu Moliyaphagguna đã từ bỏ tu tập và hoàn tục.
-- Vậy vị ấy không tìm được sự an ủi trong Pháp và Luật này
-- Vậy Tôn giả Sāriputta đã đạt được sự an ủi trong Pháp và Luật này?
-- Này Hiền giả, tôi không có nghi ngờ gì
-- Này Hiền giả, còn đối với tương lai?
-- Tôi không có băn khoăn, này Hiền giả.
Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘āyasmatā, bhante, sāriputtena aññā byākatā – ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī’’ti.
Rồi tỳ khưu Kaḷārakhattiya đi đến Đức Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Tỳ khưu Kaḷārakhattiya bạch với Đức Thế Tôn:
-- Bạch Đức Thế Tôn, con được biết Tôn giả Sāriputta tuyên bố tuệ giác như sau: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".
Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena sāriputtaṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso sāriputta, āmantetī’’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso sāriputta, āmantetī’’ti. ‘‘Evaṃ, āvuso’’ti kho āyasmā sāriputto tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ sāriputtaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tayā, sāriputta, aññā byākatā – ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī’’ti? ‘‘Na kho, bhante, etehi padehi etehi byañjanehi attho vutto’’ti. ‘‘Yena kenacipi, sāriputta, pariyāyena kulaputto aññaṃ byākaroti, atha kho byākataṃ byākatato daṭṭhabba’’nti. ‘‘Nanu ahampi, bhante, evaṃ vadāmi – ‘na kho, bhante, etehi padehi etehi byañjanehi attho vutto’’’ti.
Rồi Đức Thế Tôn gọi một tỳ khưu:
-- Này tỳ khưu, hãy đi và nhân danh Ta gọi Sāriputta: "Hiền giả Sāriputta, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả".
-- Dạ vâng, bạch Thế Tôn.
Tỳ khưu ấy vâng đáp Đức Thế Tônvà đi đến Tôn giả Sāriputta nói rằng: "Bậc Ðạo Sư cho Hiền giả".
-- Vâng, Hiền giả.
Tôn giả Sāriputta trả lời sau đó đi đến và đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Sāriputta:
-- Này Sāriputta, có đúng sự thật chăng Thầy tuyên bố tuệ giác như sau: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".
-- Bạch Thế Tôn, con vốn không nói điều ấy với câu nói và cách nói như vậy.
-- Vậy với cách nào, này Sāriputta, một thiện nam tử nói lên sự chứng đắc tuệ giác tối hậu và lời tuyên bố cần được hiểu như vậy?
-- Bạch Đức Thế Tôn, con đã thưa “con vốn không nói điều ấy với câu nói và cách nói như vậy”.
‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānatā pana tayā, āvuso sāriputta, kathaṃ passatā aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti; evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘yaṃnidānā, āvuso, jāti, tassa nidānassa khayā khīṇasmiṃ khīṇāmhīti viditaṃ. Khīṇāmhīti viditvā – khīṇājāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
-- Này Sāriputta, nếu họ hỏi Thầy: Thấy thế nào, biết thế nào để tuyên bố tuệ giác tối hậu: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"?. Thì Thầy trả lời thế nào?
-- Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ hỏi con: Thấy thế nào, biết thế nào để tuyên bố tuệ giác tối hậu: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"?. Con sẽ trả lời: “Với sự đoạn diệt nhân tập khởi của sự sanh, tôi hiểu rằng: Khi (nhân) diệt, thời (hệ quả) cũng diệt. Hiểu điều nầy thì tôi cũng hiểu: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa". Đó là câu trả lời khi con được hỏi.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘jāti panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭho taṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘jāti panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘jāti kho, āvuso, bhavanidānā bhavasamudayā bhavajātikā bhavappabhavā’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
-- Này Sāriputta, nếu họ hỏi Thầy: "Này Hiền giả Sāriputta, sanh do gì làm nhân tập khời, do gì làm năng duyên, do gì tạo thành? Thầy trả lời thế nào?
-- Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ hỏi con: Sanh do gì làm nhân tập khởi, do gì làm năng duyên, do gì tạo thành? Con sẽ trả lời: Sanh do hữu làm nhân tập khời, do hữu làm năng duyên, do hữu tạo thành.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘bhavo panāvuso sāriputta, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘bhavo panāvuso sāriputta, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘bhavo kho, āvuso, upādānanidāno upādānasamudayo upādānajātiko upādānappabhavo’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
-- Này Sāriputta, nếu họ hỏi Thầy: "Này Hiền giả Sāriputta, hữu do gì làm nhân tập khởi, do gì làm năng duyên, do gì tạo thành? Thầy trả lời thế nào?
-- Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ hỏi con: Hữu do gì làm nhân tập khởi, do gì làm năng duyên, do gì tạo thành? Con sẽ trả lời: Hữu do thủ làm nhân tập khời, do thủ làm năng duyên, do thủ tạo thành.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘upādānaṃ panāvuso...pe... sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – taṇhā panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – taṇhā panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘taṇhā kho, āvuso, vedanānidānā vedanāsamudayā vedanājātikā vedanāpabhavā’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
-- Này Sāriputta, nếu họ hỏi Thầy: "Này Hiền giả Sāriputta, thủ do gì làm nhân tập khởi, do gì làm năng duyên, do gì tạo thành? Thầy trả lời thế nào?
-- Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ hỏi con: Thủ do gì làm nhân tập khởi, do gì làm năng duyên, do gì tạo thành? Con sẽ trả lời: Thủ do ái làm nhân tập khởi, do thủ làm năng duyên, do thủ tạo thành.
-- Này Sāriputta, nếu họ hỏi Thầy: "Này Hiền giả Sāriputta, ái do gì làm nhân tập khởi, do gì làm năng duyên, do gì tạo thành? Thầy trả lời thế nào?
-- Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ hỏi con: Ái do gì làm nhân tập khởi, do gì là năng duyên, do gì tạo thành? Con sẽ trả lời: Ái do thọ làm nhân tập khởi, do thọ làm năng duyên, do thọ tạo thành.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānato pana te, āvuso sāriputta, kathaṃ passato yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti. Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānato pana te, āvuso sāriputta, kathaṃ passato yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘tisso kho imā, āvuso, vedanā. Katamā tisso? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā. Imā kho, āvuso, tisso vedanā aniccā. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti viditaṃ, yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti. Evaṃ, puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
-- Này Sāriputta, nếu họ hỏi Thầy: "Này Hiền giả Sāriputta, làm thế nào để biết sự thích thú đối với cảm thọ không hiện hữu ở hiền giả?”
-- Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ hỏi con: “Làm thế nào để biết sự thích thú đối với cảm thọ không hiện hữu ở hiền giả?” Con sẽ trả lời: Chư Hiền giả, có ba cảm thọ là thọ khổ, thọ lạc, và thọ xả. Cả ba cảm thọ đều vô thường, cái gì vô thường là khổ. Một khi điều nầy được hiểu thì sự thích thú đối với cảm thọ không hiện hữu nơi tôi.
‘‘Sādhu sādhu, sāriputta. Ayampi kho, sāriputta, pariyāyo, etasseva atthassa saṃkhittena veyyākaraṇāya – ‘yaṃ kiñci vedayitaṃ taṃ dukkhasmi’’’nti.
-- Lành thay, lành thay, này Sāriputta! cảch trả lời nầy có thể nói ngắn gọn: Cái gì được cảm thọ, cái ấy nằm trong đau khổ.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ vimokkhā pana tayā, āvuso sāriputta, aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ vimokkhā pana tayā, āvuso sāriputta, aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘ajjhattaṃ vimokkhā khvāhaṃ, āvuso, sabbupādānakkhayā tathā sato viharāmi yathā sataṃ viharantaṃ āsavā nānussavanti, attānañca nāvajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
-- Này Sāriputta, nếu họ hỏi Thầy: "Này Hiền giả Sāriputta, với sự giải thoát thế nào để có thể tuyên bố: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"?. Thì Thầy trả lời thế nào?
-- Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ hỏi con: "Này Hiền giả Sāriputta, với sự giải thoát thế nào để có thể tuyên bố: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"?. Con sẽ trả lời: Với sự giải thoát nội tại, chấp thủ đoạn tận. Tôi trú chánh niệm trong trạng thái các lậu hoặc không luân lưu, và không tự khinh.
‘‘Sādhu sādhu, sāriputta. Ayampi kho sāriputta, pariyāyo etasseva atthassa saṃkhittena veyyākaraṇāya – ye āsavā samaṇena vuttā tesvāhaṃ na kaṅkhāmi, te me pahīnāti na vicikicchāmī’’ti. Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvā sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
-- Lành thay, lành thay, này Sāriputta! cảch trả lời nầy có thể nói ngắn gọn: Tôi không còn nghi ngờ gì đối với các lậu hoặc được nói bởi Bậc Sa Môn; tôi không có nghi hoặc với những gì đã đoạn diệt.
Tatra kho āyasmā sāriputto acirapakkantassa bhagavato bhikkhū āmantesi – ‘‘pubbe appaṭisaṃviditaṃ maṃ, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ apucchi, tassa me ahosi dandhāyitattaṃ. Yato ca kho me, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi, tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi – divasaṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattiṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, rattimpāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattindivaṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, rattindivampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Dve rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... dve rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... tīṇi rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... tīṇi rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... cattāri rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... cattāri rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... pañca rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... pañca rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... cha rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... cha rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... satta rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehī’’ti.
Sau khi dạy như vậy, Đức Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất.
Sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, Tôn giả Sāriputta, nói với chư tỳ khưu:
-- Này chư Hiền giả, khi Đức Thế Tôn hỏi tôi câu hỏi thứ nhất điều mà tôi chưa từng nghĩ tới nên có do dự. Khi Đức Thế Tôn chuẩn thuận câu trả lời tôi đã nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn hỏi với điều nầy với nhiều câu nói khác nhau, nhiều cách nói khác nhau dù trọn cả ngày mình cũng có thể trả lời. Nếu Ngài hỏi cả đêm, hay trọn đêm ngày, hoặc hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy ngày đêm thì mình vẫn có thể trả lời.
Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘āyasmatā, bhante, sāriputtena sīhanādo nadito – pubbe appaṭisaṃviditaṃ maṃ, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ apucchi, tassa me ahosi dandhāyitattaṃ. Yato ca kho me, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi, tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi – divasaṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi; rattiṃ cepi...pe... rattindivaṃ cepi maṃ bhagavā...pe... dve rattindivāni cepi maṃ bhagavā...pe... tīṇi... cattāri... pañca... cha... satta rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehī’’ti.
Rồi tỳ khưu Kaḷārakhattiya đi đến Đức Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Tỳ khưu Kaḷārakhattiya bạch với Đức Thế Tôn:
-- Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Sāriputta đã cất tiếng sư tử hống như sau: Này chư Hiền giả, khi Đức Thế Tôn hỏi tôi câu hỏi thứ nhất điều mà tôi chưa từng nghĩ tới nên có do dự. Khi Đức Thế Tôn chuẩn thuận câu trả lời tôi đã nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn hỏi với điều nầy với nhiều câu nói khác nhau, nhiều cách nói khác nhau dù trọn cả ngày mình cũng có thể trả lời. Nếu Ngài hỏi cả đêm, hay trọn đêm ngày, hoặc hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy ngày đêm thì mình vẫn có thể trả lời.
‘‘Sā hi, bhikkhu, sāriputtassa dhammadhātu suppaṭividdhā, yassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā divasaṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattiṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, rattimpi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya...pe... rattindivaṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, rattindivampi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... dve rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, dve rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... tīṇi rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, tīṇi rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... cattāri rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, cattāri rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... pañca rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, pañca rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... cha rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, cha rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... satta rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehī’’ti. Dutiyaṃ.
-- Này Tỳ khưu. Sāriputta đã thâm nhập nguyên lý các pháp với sự quán triệt mà nếu Ta hỏi với nhiều câu nói khác khác nhau, với nhiều cách nói khác nhau dù trọn cả ngày Sāriputta cũng có thể trả lời. Nếu Ta hỏi cả đêm, hay trọn đêm ngày, hoặc hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy ngày đêm thì Sāriputta vẫn có thể trả lời.
Chú Thích
Tỳ khưu Kaḷārakhattiya được nhắc tới trong Tam Tạng một lần duy nhất trong bài kinh nầy, không có chi tiết được đề cập về vị nầy. Tên Kaḷārakhattiya có nghĩa là Kaḷāra dòng sát đế lỵ. Viết chung để tiện gọi không cần lập đi lập lại về dòng tộc.
Tỳ khưu Moḷiyaphagguna từng được đề cập trong bài kinh trước đây khi hỏi về “ai là người cảm thọ”. Vị nầy cũng được biết là khi xuất gia thân thiết quá đáng với chư tỳ khưu ni. (Trung Bộ I, Kakacūpama Sutta)
Chữ hīnāyāvatto – trở lui đời sống tầm thường – là thuật ngữ chỉ cho sự hoàn tục của một người xuất gia.
Theo Sớ giải khi Tôn giả Sāriputta nói “tôi không có nghi ngờ (na kaṅkhāmi)” vì Ngài đã đạt được tuệ giác đáo bỉ ngạn của bậc thánh đệ tử (sāvakapāramīñāṇa).
Đối với tương lai (āyatiṃ) chỉ cho kiếp lai sinh.
Câu hỏi tỳ khưu Kaḷārakhattiya hàm ý: Ngài đã chứng đắc quả vị giải thoát hoàn toàn chưa?
Thuật ngữ aññā – tuệ giác tối hậu hay viên giác – chỉ cho quả vị a la hán.
Theo Sớ Giải thì Tỳ khưu Kaḷārakhattiya bạch với Đức Thế Tôn về sự đại ngộ của Tôn giả Sāriputta chỉ vì sự hoan hỳ. Và do sự hoan hỷ mà lời nói không lập lại đúng như cách nói của Tôn giả Sāriputta.
Câu trả lời của Tôn giả Sāriputta là cách trả lời rất khéo của chư vị a la hán không nói là “tôi đã đắc chứng đạo quả” mà chỉ nói “thế nào là sự đắc chứng đạo quả”. Theo Sớ giải thì Đức Phật hỏi Tôn giả Sāriputta với ý nghĩ là vị đệ tử nầy sẽ không nói về sở đắc của mình mà chỉ nói về pháp tánh giác ngộ dựa trên câu hỏi của bậc Đạo Sư
Các bậc thượng thủ thinh văn như Tôn giả Sāriputta thành tựu tuệ giác tối hậu giống như chư vị toàn giác là quán chiếu duyên khởi. Vì đó là cảnh giới (savisaya) của của đại trí.
Cụm từ vedanāsu nandī – thích thú cảm thọ – hàm ý là tìm sự an lạc qua cảm thọ. Mà cảm thọ, dù thọ khổ, thọ lạc, thọ xả, đều vô thường. Không hiểu điểm nầy rất khó lãnh hội sự an lạc không cảm thọ.
Câu Yaṃ kiñci vedayitaṃ taṃ dukkhasmiṃ – cái gì vô thường là khổ – có nghĩa là cái gì có sanh có diệt thì bất toàn và bất an. Tất cả cảm thọ là vô thường nên cảm thọ nằm trong giới vức của khổ đau.
Sự giải thoát nội tại (ajjhattaṃ vimokkho) chỉ cho sự giác ngộ do quán chiếu thân tâm chính mình.
Theo Sớ giải câu “các lậu hoặc không luân lưu (āsavā nānussavanti)” chỉ cho phiền não thô tế đối với sáu căn, sáu cảnh, sáu thức.
Câu “không tự khinh chính mình (attānañ ca nāvajānāmi) theo Sớ giải chỉ cho sự tự tại không khinh rẻ (omāna) (mà cũng không bám víu) thân tâm. Bản dịch của HT Minh Châu là “không chấp nhận tự ngã” mang ý nghĩa hoàn toàn khác với chánh văn.
Không biết trước câu hỏi (Pubbe appaṭisaṃviditaṃ) nên do dự trả lời vì Tôn giả Sāriputta muốn biết dụng ý của Đức Phật.
Theo Sớ giải câu “đã thâm nhập nguyên lý các pháp (dhammadhātu) chỉ cho sự quán triệt duyên khởi bằng tuệ giác của bậc đại đệ tử Phật (paccayākārassa vivaṭabhāvadassanasamatthaṃ sāvakapāramīñāṇaṃ).
Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch
2. Kaḷārasuttaṃ
32. Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘moḷiyaphagguno, āvuso sāriputta, bhikkhu sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattoti. Na hi nūna so āyasmā imasmiṃ dhammavinaye assāsamalatthāti. Tena hāyasmā sāriputto imasmiṃ dhammavinaye assāsaṃ patto’’ti?
‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, kaṅkhāmī’’ti. ‘‘Āyatiṃ, panāvuso’’ti?
‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, vicikicchāmī’’ti.
Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘āyasmatā, bhante, sāriputtena aññā byākatā – ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī’’ti.
Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena sāriputtaṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso sāriputta, āmantetī’’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso sāriputta, āmantetī’’ti. ‘‘Evaṃ, āvuso’’ti kho āyasmā sāriputto tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ sāriputtaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tayā, sāriputta, aññā byākatā – ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī’’ti? ‘‘Na kho, bhante, etehi padehi etehi byañjanehi attho [attho ca (syā. kaṃ. ka.)] vutto’’ti. ‘‘Yena kenacipi, sāriputta, pariyāyena kulaputto aññaṃ byākaroti, atha kho byākataṃ byākatato daṭṭhabba’’nti. ‘‘Nanu ahampi, bhante, evaṃ vadāmi – ‘na kho, bhante, etehi padehi etehi byañjanehi attho vutto’’’ti.
‘‘Sace taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānatā pana tayā, āvuso sāriputta, kathaṃ passatā aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti?
‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānatā pana tayā, āvuso sāriputta, kathaṃ passatā aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti; evaṃ puṭṭhohaṃ [puṭṭho ahaṃ (syā. kaṃ.), puṭṭhāhaṃ (pī. ka.)], bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘yaṃnidānā, āvuso, jāti, tassa nidānassa khayā khīṇasmiṃ khīṇāmhīti viditaṃ. Khīṇāmhīti viditvā – khīṇājāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘jāti panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭho taṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘jāti panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘jāti kho, āvuso, bhavanidānā bhavasamudayā bhavajātikā bhavappabhavā’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘bhavo panāvuso sāriputta, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘bhavo panāvuso sāriputta, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘bhavo kho, āvuso, upādānanidāno upādānasamudayo upādānajātiko upādānappabhavo’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘upādānaṃ panāvuso...pe... sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – taṇhā panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – taṇhā panāvuso sāriputta, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti? Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘taṇhā kho, āvuso, vedanānidānā vedanāsamudayā vedanājātikā vedanāpabhavā’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānato pana te, āvuso sāriputta, kathaṃ passato yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti. Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ jānato pana te, āvuso sāriputta, kathaṃ passato yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘tisso kho imā, āvuso, vedanā. Katamā tisso? Sukhā vedanā, dukkhā vedanā, adukkhamasukhā vedanā. Imā kho, āvuso, tisso vedanā aniccā. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti viditaṃ [viditā (ṭīkā)], yā vedanāsu nandī sā na upaṭṭhāsī’ti. Evaṃ, puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sādhu sādhu, sāriputta. Ayampi kho, sāriputta, pariyāyo, etasseva atthassa saṃkhittena veyyākaraṇāya – ‘yaṃ kiñci vedayitaṃ taṃ dukkhasmi’’’nti.
‘‘Sace pana taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ vimokkhā pana tayā, āvuso sāriputta, aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti? Evaṃ puṭṭho tvaṃ, sāriputta, kinti byākareyyāsī’’ti? ‘‘Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ – ‘kathaṃ vimokkhā pana tayā, āvuso sāriputta, aññā byākatā – khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ – ‘ajjhattaṃ vimokkhā khvāhaṃ, āvuso, sabbupādānakkhayā tathā sato viharāmi yathā sataṃ viharantaṃ āsavā nānussavanti, attānañca nāvajānāmī’ti. Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyya’’nti.
‘‘Sādhu sādhu, sāriputta. Ayampi kho sāriputta, pariyāyo etasseva atthassa saṃkhittena veyyākaraṇāya – ye āsavā samaṇena vuttā tesvāhaṃ na kaṅkhāmi, te me pahīnāti na vicikicchāmī’’ti. Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvā sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
Tatra kho āyasmā sāriputto acirapakkantassa bhagavato bhikkhū āmantesi – ‘‘pubbe appaṭisaṃviditaṃ maṃ, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ apucchi, tassa me ahosi dandhāyitattaṃ. Yato ca kho me, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi, tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi – divasaṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattiṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, rattimpāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattindivaṃ [rattidivaṃ (ka.)] cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, rattindivampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Dve rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... dve rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... tīṇi rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... tīṇi rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... cattāri rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... cattāri rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... pañca rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... pañca rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... cha rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya...pe... cha rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ...pe... satta rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehī’’ti.
Atha kho kaḷārakhattiyo bhikkhu uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kaḷārakhattiyo bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘āyasmatā, bhante, sāriputtena sīhanādo nadito – pubbe appaṭisaṃviditaṃ maṃ, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ apucchi, tassa me ahosi dandhāyitattaṃ. Yato ca kho me, āvuso, bhagavā paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi, tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi – divasaṃ cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi; rattiṃ cepi...pe... rattindivaṃ cepi maṃ bhagavā...pe... dve rattindivāni cepi maṃ bhagavā...pe... tīṇi... cattāri... pañca... cha... satta rattindivāni cepi maṃ bhagavā etamatthaṃ puccheyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehī’’ti.
‘‘Sā hi, bhikkhu, sāriputtassa dhammadhātu suppaṭividdhā, yassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā divasaṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, divasampi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi. Rattiṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, rattimpi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya...pe... rattindivaṃ cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, rattindivampi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... dve rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, dve rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... tīṇi rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, tīṇi rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... cattāri rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, cattāri rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... pañca rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, pañca rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... cha rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ, cha rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya... satta rattindivāni cepāhaṃ sāriputtaṃ etamatthaṃ puccheyyaṃ aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehi, satta rattindivānipi me sāriputto etamatthaṃ byākareyya aññamaññehi padehi aññamaññehi pariyāyehī’’ti. Dutiyaṃ.
2. Kaḷārasuttavaṇṇanā
32. Dutiye kaḷārakhattiyoti tassa therassa nāmaṃ. Dantā panassa kaḷārā visamasaṇṭhānā, tasmā ‘‘kaḷāro’’ti vuccati. Hīnāyāvattoti hīnassa gihibhāvassa atthāya nivatto. Assāsamalatthāti assāsaṃ avassayaṃ patiṭṭhaṃ na hi nūna alattha, tayo magge tīṇi ca phalāni nūna nālatthāti dīpeti. Yadi hi tāni labheyya, na sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvatteyyāti ayaṃ therassa adhippāyo. Na khvāhaṃ, āvusoti ahaṃ kho, āvuso, ‘‘assāsaṃ patto, na patto’’ti na kaṅkhāmi. Therassa hi sāvakapāramīñāṇaṃ avassayo, tasmā so na kaṅkhati. Āyatiṃ panāvusoti iminā ‘‘āyatiṃ paṭisandhi tumhākaṃ ugghāṭitā, na ugghāṭitā’’ti arahattappattiṃ pucchati. Na khvāhaṃ, āvuso, vicikicchāmīti iminā thero tattha vicikicchābhāvaṃ dīpeti.
Yena bhagavā tenupasaṅkamīti ‘‘imaṃ sutakāraṇaṃ bhagavato ārocessāmī’’ti upasaṅkami. Aññā byākatāti arahattaṃ byākataṃ. Khīṇā jātīti na therena evaṃ byākatā, ayaṃ pana thero tuṭṭho pasanno evaṃ padabyañjanāni āropetvā āha. Aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesīti taṃ sutvā satthā cintesi – ‘‘sāriputto dhīro gambhīro. Na so kenaci kāraṇena evaṃ byākarissati. Saṃkhittena pana pañho byākato bhavissati. Pakkosāpetvā naṃ pañhaṃ byākarāpessāmī’’ti aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi.
Sace taṃ sāriputtāti idaṃ bhagavā ‘‘na esa attano dhammatāya aññaṃ byākarissati, pañhametaṃ pucchissāmi, taṃ kathentova aññaṃ byākarissatī’’ti aññaṃ byākarāpetuṃ evaṃ pucchi.
Yaṃnidānāvuso, jātīti, āvuso, ayaṃ jāti nāma yaṃpaccayā, tassa paccayassa khayā khīṇasmiṃ jātiyā paccaye jātisaṅkhātaṃ phalaṃ khīṇanti viditaṃ. Idhāpi ca thero pañhe akaṅkhitvā ajjhāsaye kaṅkhati. Evaṃ kirassa ahosi – ‘‘aññā nāma taṇhā khīṇā, upādānaṃ khīṇaṃ, bhavo khīṇo, paccayo khīṇo, kilesā khīṇātiādīhi bahūhi kāraṇehi sakkā byākātuṃ, kathaṃ kathento pana satthu ajjhāsayaṃ gahetuṃ sakkhissāmī’’ti.
Kiñcāpi evaṃ ajjhāsaye kaṅkhati, pañhaṃ pana aṭṭhapetvāva paccayākāravasena byākāsi. Satthāpi paccayākāravaseneva byākarāpetukāmo, tasmā esa byākarontova ajjhāsayaṃ gaṇhi. Tāvadeva ‘‘gahito me satthu ajjhāsayo’’ti aññāsi. Athassa nayasatena nayasahassena pañhabyākaraṇaṃ upaṭṭhāsi. Yasmā pana bhagavā uttari pañhaṃ pucchati, tasmā tena taṃ byākaraṇaṃ anumoditanti veditabbaṃ.
Kathaṃ jānato pana teti idaṃ kasmā ārabhi? Savisaye sīhanādaṃ nadāpetuṃ. Thero kira sūkaranikhātaleṇadvāre dīghanakhaparibbājakassa vedanāpariggahasutte kathiyamāne tālavaṇṭaṃ gahetvā satthāraṃ bījayamāno ṭhito tisso vedanā pariggahetvā sāvakapāramīñāṇaṃ adhigato, ayamassa savisayo. Imasmiṃ savisaye ṭhito sīhanādaṃ nadissatīti naṃ sandhāya satthā idaṃ pañhaṃ pucchi. Aniccāti hutvā abhāvaṭṭhena aniccā. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti ettha kiñcāpi sukhā vedanā ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhā, dukkhā vedanā ṭhitidukkhā vipariṇāmasukhā, adukkhamasukhā ñāṇasukhā aññāṇadukkhā, vipariṇāmakoṭiyā pana sabbāva dukkhā nāma jātā. Viditanti yasmā evaṃ vedanāttayaṃ dukkhanti viditaṃ, tasmā yā tattha taṇhā, sā na upaṭṭhāsīti dasseti.
Sādhu sādhūti therassa vedanāparicchedajānane sampahaṃsanaṃ. Thero hi vedanā ekāti vā dve tisso catassoti vā avuttepi vuttanayena tāsaṃ tissoti paricchedaṃ aññāsi, tena taṃ bhagavā sampahaṃsanto evamāha. Dukkhasminti idaṃ bhagavā iminā adhippāyena āha – ‘‘sāriputta, yaṃ tayā ‘iminā kāraṇena vedanāsu taṇhā na upaṭṭhāsī’ti byākataṃ, taṃ subyākataṃ. ‘Tisso vedanā’ti vibhajantena pana te atippapañco kato, taṃ ‘dukkhasmi’nti byākarontenapi hi te subyākatameva bhaveyya. Yaṃkiñci vedayitaṃ, taṃ dukkhanti ñātamattepi hi vedanāsu taṇhā na tiṭṭhati’’.
Kathaṃ vimokkhāti katarā vimokkhā, katarena vimokkhena tayā aññā byākatāti attho? Ajjhattaṃ vimokkhāti ajjhattavimokkhena, ajjhattasaṅkhāre pariggahetvā pattaarahattenāti attho. Tattha catukkaṃ veditabbaṃ – ajjhattaṃ abhiniveso ajjhattaṃ vuṭṭhānaṃ, ajjhattaṃ abhiniveso bahiddhā vuṭṭhānaṃ, bahiddhā abhiniveso bahiddhā vuṭṭhānaṃ, bahiddhā abhiniveso ajjhattaṃ vuṭṭhānanti. Ajjhattañhi abhinivesitvā bahiddhādhammāpi daṭṭhabbāyeva, bahiddhā abhinivesitvā ajjhattadhammāpi. Tasmā koci bhikkhu ajjhattaṃ saṅkhāresu ñāṇaṃ otāretvā te vavatthapetvā bahiddhā otāreti, bahiddhāpi pariggahetvā puna ajjhattaṃ otāreti, tassa ajjhatta saṅkhāre sammasanakāle maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti ajjhattaṃ abhiniveso ajjhattaṃ vuṭṭhānaṃ nāma. Koci ajjhattaṃ saṅkhāresu ñāṇaṃ otāretvā te vavatthapetvā bahiddhā otāreti, tassa bahiddhā saṅkhāre sammasanakāle maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti ajjhattaṃ abhiniveso bahiddhā vuṭṭhānaṃ nāma. Koci bahiddhā saṅkhāresu ñāṇaṃ otāretvā, te vavatthapetvā ajjhattaṃ otāreti, ajjhattampi pariggahetvā puna bahiddhā otāreti, tassa bahiddhā saṅkhāre sammasanakāle maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti bahiddhā abhiniveso bahiddhā vuṭṭhānaṃ nāma. Koci bahiddhā saṅkhāresu ñāṇaṃ otāretvā te vavatthapetvā ajjhattaṃ otāreti, tassa ajjhattasaṅkhāre sammasanakāle maggavuṭṭhānaṃ hoti. Iti bahiddhā abhiniveso ajjhattaṃ vuṭṭhānaṃ nāma. Tatra thero ‘‘ajjhattasaṅkhāre pariggahetvā tesaṃ vavatthānakāle maggavuṭṭhānena arahattaṃ pattosmī’’ti dassento ajjhattaṃ vimokkhā khvāhaṃ, āvusoti āha.
Sabbupādānakkhayāti sabbesaṃ catunnampi upādānānaṃ khayena. Tathā sato viharāmīti tenākārena satiyā samannāgato viharāmi. Yathā sataṃ viharantanti yenākārena maṃ satiyā samannāgataṃ viharantaṃ. Āsavā nānussavantīti cakkhuto rūpe savanti āsavanti sandanti pavattantīti evaṃ chahi dvārehi chasu ārammaṇesu savanadhammā kāmāsavādayo āsavā nānussavanti nānuppavaḍḍhanti, yathā me na uppajjantīti attho. Attānañca nāvajānāmīti attānañca na avajānāmi. Iminā omānapahānaṃ kathitaṃ. Evañhi sati pajānanā pasannā hoti.
Samaṇenāti buddhasamaṇena. Tesvāhaṃ na kaṅkhāmīti tesu ahaṃ ‘‘kataro kāmāsavo, kataro bhavāsavo, kataro diṭṭhāsavo, kataro avijjāsavo’’ti evaṃ sarūpabhedatopi, ‘‘cattāro āsavā’’ti evaṃ gaṇanaparicchedatopi na kaṅkhāmi. Te me pahīnāti na vicikicchāmīti te mayhaṃ pahīnāti vicikicchaṃ na uppādemi. Idaṃ bhagavā ‘‘evaṃ byākarontenapi tayā subyākataṃ bhaveyya ‘ajjhattaṃ vimokkhā khvāhaṃ, āvuso’tiādīni pana te vadantena atippapañco kato’’ti dassento āha.
Uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisīti paññattavarabuddhāsanato uṭṭhahitvā vihāraṃ antomahāgandhakuṭiṃ pāvisi asambhinnāya eva parisāya. Kasmā? Buddhā hi aniṭṭhitāya desanāya asambhinnāya parisāya uṭṭhāyāsanā gandhakuṭiṃ pavisantā puggalathomanatthaṃ vā pavisanti dhammathomanatthaṃ vā. Tattha puggalathomanatthaṃ pavisanto satthā evaṃ cintesi – ‘‘imaṃ mayā saṃkhittena uddesaṃ uddiṭṭhaṃ vitthārena ca avibhattaṃ dhammapaṭiggāhakā bhikkhū uggahetvā ānandaṃ vā kaccāyanaṃ vā upasaṅkamitvā pucchissanti, te mayhaṃ ñāṇena saṃsandetvā kathessanti, tatopi dhammapaṭiggāhakā puna maṃ pucchissanti. Tesamahaṃ ‘sukathitaṃ, bhikkhave, ānandena, sukathitaṃ kaccāyanena, maṃ cepi tumhe etamatthaṃ puccheyyātha, ahampi naṃ evameva byākareyya’nti evaṃ te puggale thomessāmi. Tato tesu gāravaṃ janetvā bhikkhū upasaṅkamissanti, tepi bhikkhū atthe ca dhamme ca niyojessanti, te tehi niyojitā tisso sikkhā paripūretvā dukkhassantaṃ karissantī’’ti.
Atha vā panassa evaṃ hoti – ‘‘esa mayi pakkante attano ānubhāvaṃ karissati, atha naṃ ahampi tatheva thomessāmi, taṃ mama thomanaṃ sutvā gāravajātā bhikkhū imaṃ upasaṅkamitabbaṃ, vacanañcassa sotabbaṃ saddhātabbaṃ maññissanti, taṃ tesaṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti dhammathomanatthaṃ pavisanto evaṃ cintesi yathā dhammadāyādasutte cintesi. Tatra hissa evaṃ ahosi – ‘‘mayi vihāraṃ paviṭṭhe āmisadāyādaṃ garahanto dhammadāyādañca thomento imissaṃyeva parisati nisinno sāriputto dhammaṃ desessati, evaṃ dvinnampi amhākaṃ ekajjhāsayāya matiyā desitā ayaṃ desanā aggā ca garukā ca bhavissati pāsāṇacchattasadisā’’ti.
Idha pana āyasmantaṃ sāriputtaṃ ukkaṃsetvā pakāsetvā ṭhapetukāmo puggalathomanatthaṃ uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi. Īdisesu ṭhānesu bhagavā nisinnāsaneyeva antarahito cittagatiyā vihāraṃ pavisatīti veditabbo. Yadi hi kāyagatiyā gaccheyya, sabbā parisā bhagavantaṃ parivāretvā gaccheyya, sā ekavāraṃ bhinnā puna dussannipātā bhaveyyāti bhagavā adissamānena kāyena cittagatiyā eva pāvisi.
Evaṃ paviṭṭhe pana bhagavati bhagavato adhippāyānurūpameva sīhanādaṃ naditukāmo tatra kho āyasmā sāriputto acirapakkantassa bhagavato bhikkhū āmantesi. Pubbe appaṭisaṃviditanti idaṃ nāma pucchissatīti pubbe mayā aviditaṃ aññātaṃ. Paṭhamaṃ pañhanti, ‘‘sace taṃ, sāriputta, evaṃ puccheyyuṃ kathaṃ jānatā pana tayā, āvuso sāriputta, kathaṃ passatā aññā byākatā khīṇā jātī’’ti imaṃ paṭhamaṃ pañhaṃ. Dandhāyitattanti satthu āsayajānanatthaṃ dandhabhāvo asīghatā. Paṭhamaṃ pañhaṃ anumodīti, ‘‘jāti panāvuso sāriputta, kiṃnidānā’’ti imaṃ dutiyaṃ pañhaṃ pucchanto, ‘‘yaṃnidānāvuso, jātī’’ti evaṃ vissajjitaṃ paṭhamaṃ pañhaṃ anumodi.
Etadahosīti bhagavatā anumodite nayasatena nayasahassena pañhassa ekaṅgaṇikabhāvena pākaṭībhūtattā etaṃ ahosi. Divasampāhaṃ bhagavato etamatthaṃ byākareyyanti sakaladivasampi ahaṃ bhagavato etaṃ paṭiccasamuppādatthaṃ puṭṭho sakaladivasampi aññamaññehi padabyañjanehi byākareyyaṃ. Yena bhagavā tenupasaṅkamīti evaṃ kirassa ahosi – ‘‘thero uḷārasīhanādaṃ nadati, sukāraṇaṃ etaṃ, dasabalassa naṃ ārocessāmī’’ti. Tasmā yena bhagavā tenupasaṅkami.
Sā hi bhikkhu sāriputtassa dhammadhātūti ettha dhammadhātūti paccayākārassa vivaṭabhāvadassanasamatthaṃ sāvakapāramīñāṇaṃ. Sāvakānañhi sāvakapāramīñāṇaṃ sabbaññutaññāṇagatikameva hoti. Yathā buddhānaṃ atītānāgatapaccuppannā dhammā sabbaññutaññāṇassa pākaṭā honti, evaṃ therassa sāvakapāramīñāṇaṃ sabbepi sāvakañāṇassa gocaradhamme jānātīti. Dutiyaṃ.