Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || VƯỢT KHỎI MỌI SỞ CHẤP - Kinh Bệnh II (Dutiyagilānasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || VƯỢT KHỎI MỌI SỞ CHẤP - Kinh Bệnh II (Dutiyagilānasuttaṃ)

Thứ năm, 06/03/2025, 04:26 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 4.3.2025

VƯỢT KHỎI MỌI SỞ CHẤP

Kinh Bệnh II (Dutiyagilānasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Bệnh (SN.35.75)

Niết bàn đồng nghĩa với diệt đế (nirodhasacca). Trong ngôn ngữ của tứ đế, theo cách nói của trần gian, là sự dập tắt khát ái (taṇhā) Diệt ái là niết bàn. Niết bàn còn hàm nghĩa là không còn khao khát. Tên gọi vô thủ trước niết bàn bao gồm sự không còn chấp trước dù là “ai chứng” và “chứng đắc được gì”. Tương tự như trong cuộc sống, khi nói đến cảnh giới chí thiện, người ta không còn mảy may bận tâm đến ý niệm “mình là người làm chuyện tốt” hay “mình đạt được điều tốt này, điều tốt kia”. Đó là cách diễn đạt gần nhất của khái niệm “vô thủ trước niết bàn”.

A person touching a person's head

AI-generated content may be incorrect.

Kinh Văn

 75. atha kho aññataro bhikkhu ... pe ... bhagavantaṃ etadavoca — “amukasmiṃ, bhante, vihāre aññataro bhikkhu navo appaññāto ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. sādhu, bhante, bhagavā yena so bhikkhu tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”ti.

atha kho bhagavā navavādañca sutvā gilānavādañca, “appaññāto bhikkhū”ti iti viditvā yena so bhikkhu tenupasaṅkami. addasā kho so bhikkhu bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. disvāna mañcake samadhosi. atha kho bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca — “alaṃ, bhikkhu, mā tvaṃ mañcake samadhosi. santimāni āsanāni paññattāni, tatthāhaṃ nisīdissāmī”ti. nisīdi bhagavā paññatte āsane. nisajja kho bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca — “kacci te, bhikkhu, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti no abhikkamanti, paṭikkamosānaṃ paññāyati no abhikkamo”ti?

 “na me, bhante, khamanīyaṃ, na yāpanīyaṃ ... pe ... na kho maṃ {me (sabbattha)}, bhante, attā sīlato upavadatī”ti.

“no ce kira te, bhikkhu, attā sīlato upavadati, atha kiñca te kukkuccaṃ ko ca vippaṭisāro”ti?

“na khvāhaṃ, bhante, sīlavisuddhatthaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”ti.

“no ce kira tvaṃ, bhikkhu, sīlavisuddhatthaṃ mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsi, atha kimatthaṃ carahi tvaṃ, bhikkhu, mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsī”ti?

“anupādāparinibbānatthaṃ khvāhaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”ti.

“sādhu sādhu, bhikkhu! sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, anupādāparinibbānatthaṃ mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsi. anupādāparinibbānattho hi, bhikkhu, mayā dhammo desito.

“taṃ kiṃ maññasi, bhikkhu, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“aniccaṃ, bhante”.

“yaṃ ... pe ... sotaṃ... ghānaṃ... jivhā... kāyo... mano... manoviññāṇaṃ... manosamphasso... yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“aniccaṃ, bhante”.

“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

 “dukkhaṃ, bhante”.

 “yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“no hetaṃ, bhante”.

 “evaṃ passaṃ, bhikkhu, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati ... pe ... manasmimpi... manoviññāṇepi... manosamphassepi nibbindati. yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati. nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.

 idamavoca bhagavā. attamano so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinandi. imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne tassa bhikkhussa anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccīti {vimuccatīti (sabbattha)} . dutiyaṃ.

Tại Sāvatthi.

Bấy giờ một vị tỳ khưu đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, tại một tịnh xá nọ, có một vị tỳ khưu mới xuất gia, không được nhiều người biết đến, hiện đang bệnh nặng, đau đớn, nguy kịch. Bạch Thế Tôn, thật diễm phúc, nếu Ngài bi mẫn đến thăm tỳ khưu ấy”.

Khi nghe những lời “mới xuất gia” và “bệnh nặng”, hiểu rằng vị này không phải là một tỳ khưu được nhiều người biết đến, Thế Tôn liền đi đến chỗ vị ấy. Vị tỳ khưu bệnh nhìn thấy Thế Tôn từ xa đi tới, liền cựa quậy trên giường. Thế Tôn bảo:

“Thôi đủ rồi, này Tỳ khưu, đừng cựa quậy trên giường. Đã có sẵn chỗ ngồi, ta sẽ ngồi”.

Sau khi ngồi xuống chỗ đã được chuẩn bị, Thế Tôn nói với vị Tỳ khưu:

“Hy vọng ông kham nhẫn được, hy vọng Thầy đang dần bình phục. Mong rằng những cảm thọ đau đớn của Thầy giảm bớt chứ không gia tăng và có thể thấy được sự thuyên giảm”.

Vị Tỳ khưu thưa:

“Bạch Thế Tôn, con không chịu đựng được, con không khá lên. Những cảm thọ đau đớn ngày càng tăng, không hề thuyên giảm và con chỉ thấy sự gia tăng của chúng”.

“Vậy thì, này Tỳ-kheo, mong rằng ông không bị phiền não bởi sự hối hận và ân hận”.

“Bạch Thế Tôn, thực sự con có rất nhiều tiếc nuối và ân hận”.

“Mong rằng ông không có gì để tự trách mình về giới hạnh”.

“Bạch Thế Tôn, con không có gì để tự trách về giới hạnh”.

“Vậy thì, này Tỳ-kheo, nếu ông không có gì để tự trách về giới hạnh, tại sao lại bị phiền não bởi sự tiếc nuối và ân hận?”

“Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng giáo pháp không được Ngài giảng dạy chỉ vì sự thanh

tịnh của giới hạnh”.

“Nếu Thầy hiểu rằng giáo pháp không được ta giảng dạy chỉ vì sự thanh tịnh của giới

hạnh, vậy ông hiểu giáo pháp được giảng dạy vì cứu cánh gì?”

“Bạch Thế Tôn, con hiểu rằng giáo pháp được Ngài giảng dạy vì mục đích tối hậu là vô thủ trước niết bàn”.

“Tốt lắm, tốt lắm, này Tỳ-kheo! Thật tốt khi Thầy hiểu giáo pháp được ta giảng dạy vì mục đích tối hậu là vô thủ trước niết bàn”.

“Thầy nghĩ sao, này Tỳ khưu, mắt là thường hay vô thường?”

— “Vô thường, bạch Thế Tôn”.

— “Tai… mũi… lưỡi… thân… ý là thường hay vô thường?”

— “Vô thường, bạch Thế Tôn”.

— “Những gì vô thường là khổ hay lạc?”

— “Là khổ, bạch Thế Tôn”.

— “Những gì vô thường, khổ và chịu sự biến hoại, có đáng xem là ‘cái này là của ta,

cái này là ta, cái này là tự ngã của ta’ không?”

— “Thưa không, bạch Thế Tôn”.

“Thấy như vậy… vị ấy hiểu rằng: ‘Không còn gì nữa cho trạng thái hiện hữu này’”.

Đó là những gì Thế Tôn đã dạy. Vị Tỳ khưu phấn khởi, hoan hỷ trong lời dạy của Thế

Tôn. Và ngay trong lúc bài pháp được giảng, tâm của vị Tỳ khưu ấy giải thoát khỏi các lậu hoặc nhờ sự không chấp thủ.

Chú Thích

Bài kinh này phần lớn giống bài kinh trước, chỉ khác là thay vì mục đích đoạn tận dục niệm thì thay thế bằng “vô thủ trước niết bàn”. Theo nhiều học giả, thì khi sự việc xảy ra, lời nói có thể khác biệt trong cách hành văn nhưng ý nghĩa giống nhau, thì Tôn giả Ananda và Tôn giả Upāli khi kết tập cách hành văn giống nhau. Điều này tốt cho sự ghi nhớ và tụng đọc. Đây là đặc điểm của văn học truyền khẩu.

Anupadaparinibbāna - vô thủ trước niết bàn – là cách nói đặc biệt chỉ cho “diệt đế” vốn vượt trên mọi chấp thủ kể cả ý niệm “ta chứng” và “sở chứng của ta”. Nói cách khác là không còn mảy may ái chấp, mạn chấp và kiến chấp.

Điều này có thể giải thích (ít nhất một phần) lý do tại sao vị tỳ khưu trong bài kinh này chứng đắc A-la-hán, trong khi vị tỳ khưu trong bài kinh trước chỉ đạt được Pháp nhãn (nhập lưu – Sotāpatti).

Sớ Giải

74-78. gilānavaggassa paṭhame amukasminti asukasmiṃ. ayameva vā pāṭho. appaññātoti aññāto apākaṭo. navopi hi koci paññāto hoti rāhulatthero viya sumanasāmaṇero viya ca, ayaṃ pana navo ceva apaññāto ca. sesamettha vuttanayamevāti. tathā ito paresu catūsu.

Amukasminti có nghĩa là asukasmi (ở một nơi nào đó). Đây cũng có thể là một bản đọc khác.

Appaññāto có nghĩa là chưa được biết đến, không nổi tiếng. Một số vị Tỳ-kheo dù mới xuất gia (nava) nhưng vẫn được nhiều người biết đến, như Tôn giả Rāhula hay sa di Sumana. Tuy nhiên, vị tỳ khưu trong trường hợp này vừa mới xuất gia (nava) vừa không nổi tiếng (apaññāto).

Các phần còn lại trong đoạn này được giải thích theo cách đã nói trước đây. Điều này cũng áp dụng cho bốn bài tiếp theo trong phẩm này.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu để tham khảo thêm.

75.II. Bệnh (2) (S.iv,47)

1-10) (Hoàn toàn giống như kinh trước).

11) -- Này Tỷ-kheo, nếu Ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, Ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp Thế Tôn dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không chấp thủ.

12) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không có chấp thủ.

13-14) (Như kinh trước)

15) Thế Tôn thuyết như vậy. Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tán thán lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, tâm Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

Ý kiến bạn đọc