- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 24.5.2025
VẼ ĐƯỜNG CHO HƯU CHẠY
KINH NGƯỜI THỰC THI (Antevāsikasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Mới Và Cũ (SN.35.151)
Người tu tập đúng nghĩa là người phấn đấu điều phục bản thân. Thế giới nội tâm có những trạng thái giằng co đối lập giữa thiện và bất thiện, bạn và thù, sức mạnh sai sử và tâm tư bị chi phối. Một người có kinh nghiệm thực sự về đời sống nội tại sẽ ý thức rõ sự trạng “lông ngỗng của Mỵ Châu”. Nói cách khác kẻ nội thù thường nguy hiểm hơn trăm vạn lần thế lực đối đầu bên ngoài.
KINH VĂN
“puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno jivhāya rasaṃ sāyitvā uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tyāssa anto vasanti, antassa vasanti pāpakā akusalā dhammāti. tasmā santevāsikoti vuccati. te naṃ samudācaranti, samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti. tasmā sācariyakoti vuccati ... pe ....
“puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno manasā dhammaṃ viññāya uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tyāssa anto vasanti, antassa vasanti pāpakā akusalā dhammāti. tasmā santevāsikoti vuccati. te naṃ samudācaranti, samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti. tasmā sācariyakoti vuccati. evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu santevāsiko sācariyako dukkhaṃ, na phāsu viharati.
“kathañca, bhikkhave, bhikkhu anantevāsiko anācariyako sukhaṃ phāsu viharati? idha, bhikkhave, bhikkhuno cakkhunā rūpaṃ disvā na uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tyāssa na anto vasanti, nāssa anto vasanti pāpakā akusalā dhammāti. tasmā anantevāsikoti vuccati. te naṃ na samudācaranti, na samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti. tasmā anācariyakoti vuccati ... pe ...
“puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno jivhāya rasaṃ sāyitvā na uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tyāssa na anto vasanti, nāssa anto vasanti pāpakā akusalā dhammāti. tasmā anantevāsikoti vuccati. te naṃ na samudācaranti, na samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti. tasmā anācariyakoti vuccati ... pe ....
“puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhuno manasā dhammaṃ viññāya na uppajjanti pāpakā akusalā dhammā sarasaṅkappā saṃyojaniyā. tyāssa na anto vasanti, nāssa anto vasanti pāpakā akusalā dhammāti. tasmā anantevāsikoti vuccati. te naṃ na samudācaranti, na samudācaranti naṃ pāpakā akusalā dhammāti. tasmā anācariyakoti vuccati. evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu anantevāsiko anācariyako sukhaṃ phāsu viharati. anantevāsikamidaṃ, bhikkhave, brahmacariyaṃ vussati. anācariyakaṃ santevāsiko, bhikkhave, bhikkhu sācariyako dukkhaṃ, na phāsu viharati. anantevāsiko, bhikkhave, bhikkhu anācariyako sukhaṃ phāsu viharatī”ti. chaṭṭhaṃ.
151. "Này chư Tỳ khưu, đời phạm hạnh này được sống không có người thực thi và không có người sai sử. Một hành giả có người thực thi và có người sai sử thì sống phiền toái và khổ đau. Một hành giả không có người thực thi và không có người sai sử thì sống thoải mái, an lạc.
"Và này chư Tỳ khưu, thế nào là một hành giả có người thực thi và có người sai sử thì sống phiền toái và khổ đau? Ở đây, này chư Tỳ khưu, khi hành giả thấy một hình sắc bằng mắt, nơi vị ấy khởi lên các trạng thái bất thiện, ác, những hồi ức và ý định gắn kết với trói buộc. Chúng tồn tại trong tâm vị ấy. Do các trạng thái bất thiện ấy tồn tại trong tâm, vị ấy được gọi là 'có người thực thi.' Chúng chỉ đạo vị ấy. Do các trạng thái bất thiện ngự trị ấy, vị ấy được gọi là 'có người sai sử.'
"Tương tự như vậy, khi một Tỳ-kheo nghe một âm thanh bằng tai... nhận biết cảnh pháp bằng ý... vị ấy được gọi là 'có người sai sử.'
"Chính theo cách này, một hành giả có người thực thi và có người sai sử thì sống phiền toái và khổ đau.
Này chư Tỳ khưu, thế nào là hành giả không có người thực thi và không có người sai sử thì sống thoải mái, an lạc. Ở đây, này chư Tỳ khưu, khi hành giả thấy một hình sắc bằng mắt, nơi vị ấy không khởi lên các trạng thái bất thiện, ác, những hồi ức và ý định gắn kết với trói buộc. Chúng không tồn tại trong tâm vị ấy. Do các trạng thái bất thiện ấy không tồn tại trong tâm, vị ấy được gọi là 'không có người thực thi.' Chúng không chỉ đạo vị ấy. Do các trạng thái bất thiện không ngự trị vị ấy, vị ấy được gọi là 'không có người sai sử.'
"Tương tự như vậy, khi một Tỳ-kheo nghe một âm thanh bằng tai... nhận biết cảnh pháp bằng ý... vị ấy được gọi là 'không có người sai sử.'
"Chính theo cách này, hành giả không có người thực thi và không có người sai sử thì sống thoải mái, an lạc.
"Này chư Tỳ khưu, đời phạm hạnh này được sống không có người thực thi và không có người sai sử. Một hành giả có người thực thi và có người sai sử thì sống phiền toái và khổ đau. Một hành giả không có người thực thi và không có người sai sử thì sống thoải mái, an lạc.
CHÚ THÍCH
Ngôn phong của bài kinh này rất khó chuyển sang ngôn ngữ khác, vì mang hình thái như “chơi chữ” trong riêng một ngôn ngữ.
Câu “Anantevasikam idam bhikkhave brahmacariyam vussati anacariyakam - Này chư Tỳ khưu, đời phạm hạnh này được sống không có người thực thi và không có người sai sử.”
Từ antevāsi theo nghĩa đen là "người sống tại nhà thầy dạy" theo cách học “dưới chân thầy” thời xưa. Vì vậy, theo cách giải thích trong kinh văn bên dưới, người mà các lậu hoặc (phiền não) không còn trú ngụ bên trong (na antovasanti) thì được gọi là “không có người thực thi” (anantevāsika).
Từ "ācariya) ở đây được chơi chữ liên hệ với động từ “sai sử, dẫn dắt” (samudcarati); do đó, người không bị các lậu hoặc tấn công thì được gọi là “không có người sai sử” (anācariyaka).
Có thể nói đây là lối nhân cách hoá phiền não nội tại. Sớ giải chú thích: anantevāsikam là anto vasana kilesa virahitam – “người không có kẻ thực thi là không có phiền não trú ngụ bên trong”. anācariyakam là ācarana kilesa virahitam – “người không có kẻ sai sử là không có phiền não chi phối hay ngự trị”.
SỚ GIẢI
151-152. chaṭṭhe anantevāsikanti anto vasanakakilesavirahitaṃ. anācariyakanti ācaraṇakakilesavirahitaṃ. antassa vasantīti anto assa vasanti. te naṃ samudācarantīti te etaṃ adhibhavanti ajjhottharanti sikkhāpenti vā. “evaṃ vejjakammaṃ karohi, evaṃ dūtakamman”ti iti sikkhāpanasaṅkhātena samudācaraṇatthenassa te ācariyā nāma honti, tehi ācariyehi sācariyakoti vuccati. sesamettha vuttanayeneva veditabbaṃ. sattamaṃ heṭṭhā kathitanayameva.
151–152. Trong bài kinh thứ sáu (chaṭṭhe):
“Te naṃ samudācaranti” nghĩa là: “chúng chi phối vị ấy, chỉ đạo hoặc dẫn dắt vị ấy.” Cụ thể, chúng có thể như nói: “Hãy làm việc như thầy thuốc theo cách này”, “Hãy làm nhiệm vụ sứ giả như thế kia”, tức là chúng đóng vai trò chỉ dạy (sikkhāpenti) và theo nghĩa chỉ đạo hoặc dẫn dắt qua hành động chỉ dẫn (samudācaraṇatthena), chúng trở thành 'thầy' (ācariyā) của người ấy.
Vì bị các “thầy” ấy ảnh hưởng, người ấy được gọi là “sācariyaka” – tức có người dẫn dắt.
Phần còn lại (sesamettha) nên được hiểu theo cách đã được giải thích ở phần trên (vuttanayeneva veditabbaṃ).
Bài kinh thứ bảy (sattamaṃ) cũng nên được hiểu giống như cách đã được giảng ở phần dưới trước đó (heṭṭhā kathitanayameva).
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu
150. VI. Ðệ Tử Nội Trú (S.iv,136)
1-2) ...
3) -- Này các Tỷ-kheo, không có các đệ tử nội trú, không có Ðạo Sư. Phạm hạnh này được sống.
4) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống có đệ tử nội trú, có Ðạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Ðạo sư là sống an lạc, thoải mái.
5) Và thế nào, này các Tỷ-kheo, sống có đệ tử nội trú, có Ðạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái?
6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị khởi lên trói buộc, chúng trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp nội trú trong vị ấy. Do vậy, được gọi là có đệ tử nội trú. Chúng theo sát (Samudàcaranti) vị ấy; các ác bất thiện pháp theo sát vị ấy. Do vậy, được gọi là Ðạo sư.
7-10) ... khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc...
11) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ý biết pháp, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị trói buộc khởi lên, chúng trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp nội trú ở trong vị ấy. Do vậy, được gọi là có đệ tử nội trú. Chúng theo sát vị ấy; các ác bất thiện pháp theo sát vị ấy. Do vậy, được gọi là có Ðạo sư.
12) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo sống có đệ tử nội trú, có Ðạo sư, là sống đau khổ, không có thoải mái.
13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Ðạo sư, là sống an lạc thoải mái?
14) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị trói buộc không khởi lên, chúng không trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp không nội trú trong vị ấy. Cho nên, vị ấy được gọi là sống không có đệ tử nội trú. Chúng không theo sát vị ấy; các ác bất thiện pháp không theo sát vị ấy. Do vậy, vị ấy được gọi là không có Ðạo sư.
15-18) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc...
19) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ý biết pháp, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng không khởi lên, chúng không trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp không nội trú ở trong vị ấy. Do vậy, được gọi là sống không có đệ tử nội trú. Chúng không theo sát vị ấy; các ác bất thiện pháp không theo sát vị ấy. Do vậy, vị ấy được gọi là không có Ðạo sư.
20) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Ðạo sư.
Ðây, này các Tỷ-kheo, được gọi là Phạm hạnh không có đệ tử nội trú, không có Ðạo sư.
21) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống có đệ tử nội trú, có Ðạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Ðạo sư, là sống an lạc, thoải mái.