- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 26.3.2022
TRỰC DIỆN VỚI MA
Kinh Samiddhi (Samiddhisuttaṃ)
(CHƯƠNG IV. TƯƠNG ƯNG ÁC MA, PHẨM THỨ BA) (S.i, 119)
Có bức tường vô hình giữa cái biết và cái không biết. Điều nầy trùng hợp cả đối với thiên tử ma cũng như phiền não ma. Khi Ác ma bị nhận diện thì tự biến mất. Phiền não ma cũng vậy. Tâm lý học Tây Phương có phương cách trị liệu đối với những sợ hãi do ám ảnh (phobia) bằng cách đối diện trực tiếp với những gì tạo nên sợ hãi như chuột, gián hay cao độ ..v.v.. Trong trường hợp nầy Ác ma dùng tiếng động đáng sợ để chi phối tâm của Tôn giả Samiddhi. Đức Phật dạy nên trở về chỗ cũ và trực diện với ma cả ngoại tại cũng như nội tại. Cuối cùng tuệ giác bừng khai.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati silāvatiyaṃ. Thuở ấy Đức Thế Tôn trú giữa những người Sakya tại Silāvatī
|
|
Tena kho pana samayena āyasmā samiddhi bhagavato avidūre appamatto ātāpī pahitatto viharati. Bấy giờ gần Đức Thế Tôn có tôn giả Samiddhi sống nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng. |
|
Atha kho āyasmato samiddhissa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me satthā arahaṃ sammāsambuddho. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yvāhaṃ evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajito. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me sabrahmacārino sīlavanto kalyāṇadhammā’’ti. Rồi Tôn giả Samiddhi trong lúc độc cư tịnh mặc khởi lên ý nghĩ: “Quả thật lợi ích cho ta; quả thật lợi ích thù diệu cho ta khi đạo sư của ta là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng chánh giác; quả thật lợi ích cho ta; quả thật lợi ích thù diệu cho ta khi ta được xuất gia trong pháp và luật khéo giảng dạy; quả thật lợi ích cho ta; quả thật lợi ích thù diệu cho ta khi các bạn đồng phạm tu là những bậc giới hạnh và hiền thiện”. |
|
Atha kho māro pāpimā āyasmato samiddhissa cetasā cetoparivitakkamaññāya yenāyasmā samiddhi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmato samiddhissa avidūre mahantaṃ bhayabheravaṃ saddamakāsi, apissudaṃ pathavī maññe undrīyati. Bấy giờ Ác ma với tâm của mình biết được suy nghĩ của Tôn giả Samiddhi liền đi tới Tôn giả Samiddhi và tạo nên một âm thanh khủng khiếp như địa chấn cực mạnh. |
|
Atha kho āyasmā samiddhi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno āyasmā samiddhi bhagavantaṃ etadavoca – Rồi Tôn giả Samiddhi đi đến Đức Thế Tôn, sau khi đảnh lễ bạch rằng: |
|
‘‘idhāhaṃ, bhante, bhagavato avidūre appamatto ātāpī pahitatto viharāmi. Tassa mayhaṃ, bhante, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me satthā arahaṃ sammāsambuddho. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yvāhaṃ evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajito. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me sabrahmacārino sīlavanto kalyāṇadhammā’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, avidūre mahābhayabheravasaddo ahosi, apissudaṃ pathavī maññe undrīyatī’’ti. Bạch Thế Tôn, con sống gần Đức Thế Tôn với nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng. Rồi trong lúc độc cư tịnh mặc khởi lên ý nghĩ: “Quả thật lợi ích cho ta; quả thật lợi ích thù diệu cho ta khi đạo sư của ta là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng chánh giác; quả thật lợi ích cho ta; quả thật lợi ích thù diệu cho ta khi ta được xuất gia trong pháp và luật khéo giảng dạy; quả thật lợi ích cho ta; quả thật lợi ích thù diệu cho ta khi các bạn đồng phạm tu là những bậc giới hạnh và hiền thiện”. Khi ấy có một âm thanh khủng khiếp như địa chấn cực mạnh. |
|
‘‘Nesā, samiddhi, pathavī undrīyati. Māro eso pāpimā tuyhaṃ vicakkhukammāya āgato. Gaccha tvaṃ, samiddhi, tattheva appamatto ātāpī pahitatto viharāhī’’ti. -- Này Samiddhi, không phải là địa chấn. Ðó là Ác ma đã đến để làm mờ loạn thầy. Này Samiddhi, Thầy hãy trở lại chỗ ấy và sống nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng. |
|
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā samiddhi bhagavato paṭissutvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Samiddhi vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên phải hướng về Ngài, rồi ra đi. |
|
Dutiyampi kho āyasmā samiddhi tattheva appamatto ātāpī pahitatto vihāsi. Dutiyampi kho āyasmato samiddhissa rahogatassa paṭisallīnassa...pe... dutiyampi kho māro pāpimā āyasmato samiddhissa cetasā cetoparivitakkamaññāya...pe... apissudaṃ pathavī maññe undrīyati. Lần thứ hai tôn giả Samiddhi sống nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng. Lần thứ hai Tôn giả Samiddhi trong lúc độc cư tịnh mặc khởi lên ý nghĩ: “Quả thật lợi ích cho ta; quả thật lợi ích thù diệu cho ta khi đạo sư của ta là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng chánh giác …. Lần thứ hai Ác ma với tâm của mình biết được suy nghĩ của Tôn giả Samiddhi liền đi tới Tôn giả Samiddhi và tạo nên một âm thanh khủng khiếp như địa chấn cực mạnh. |
|
Atha kho āyasmā samiddhi māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi biết: "Ðây là Ác ma" liền nói Ác ma kệ ngôn: |
|
‘‘Saddhāyāhaṃ pabbajito, agārasmā anagāriyaṃ; Sati paññā ca me buddhā, cittañca susamāhitaṃ; Kāmaṃ karassu rūpāni, neva maṃ byādhayissasī’’ti. |
Xuất gia với niềm tin Ta sống không gia đình Niệm, tuệ ta thuần thục Tâm ý khéo an định Tạo hình gì ngươi muốn Chẳng làm ta loạn động. |
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ samiddhi bhikkhū’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. Rồi Ác ma biết được: "Tỷ-kheo Samiddhi biết ta", nên buồn và thất vọng liền biến mất tại chỗ ấy. |
‘‘Saddhāyāhaṃ pabbajito | Ta xuất gia với niềm tin |
agārasmā anagāriyaṃ | thoát tục sống không nhà |
Sati paññā ca me buddhā | chánh niệm và trí tuệ đã thuần thục |
cittañca susamāhitaṃ | tâm tư đã được khéo an định |
Kāmaṃ karassu rūpāni | ngươi có hiện hình kiểu nào đi nữa |
neva maṃ byādhayissasī’’ti | cũng không khiến ta loạn động |
Chữ buddhā trong kệ ngôn của Tôn giả Samiddhi được tìm thấy trong Trưởng Lão Tăng Kệ là cách viết khác của chữ vudḍḥā nghĩa là thuần thục. Trong bản Sớ giải thì nói rằng chữ buddhā ở đây chỉ cho ñātā, mà Hậu Sớ Giải định nghĩa từ nầy là sự tỏ ngộ bởi thánh đạo với năng lực của tuệ giác (Tā ariyamaggena jānanasamatthanabhāvena avabuddhā).
Cũng theo Sớ giải, không lâu sau sự kiện nầy Tôn giả Samiddhi chứng quả A la hán.
Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
-ooOoo-
2. Samiddhisuttaṃ [Mūla]
158. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati silāvatiyaṃ. Tena kho pana samayena āyasmā samiddhi bhagavato avidūre appamatto ātāpī pahitatto viharati. Atha kho āyasmato samiddhissa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me satthā arahaṃ sammāsambuddho. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yvāhaṃ evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajito. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me sabrahmacārino sīlavanto kalyāṇadhammā’’ti. Atha kho māro pāpimā āyasmato samiddhissa cetasā cetoparivitakkamaññāya yenāyasmā samiddhi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmato samiddhissa avidūre mahantaṃ bhayabheravaṃ saddamakāsi, apissudaṃ pathavī maññe undrīyati.
Atha kho āyasmā samiddhi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno āyasmā samiddhi bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idhāhaṃ, bhante, bhagavato avidūre appamatto ātāpī pahitatto viharāmi. Tassa mayhaṃ, bhante, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me satthā arahaṃ sammāsambuddho. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yvāhaṃ evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajito. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me sabrahmacārino sīlavanto kalyāṇadhammā’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, avidūre mahābhayabheravasaddo ahosi, apissudaṃ pathavī maññe undrīyatī’’ti.
‘‘Nesā, samiddhi, pathavī undrīyati. Māro eso pāpimā tuyhaṃ vicakkhukammāya āgato. Gaccha tvaṃ, samiddhi, tattheva appamatto ātāpī pahitatto viharāhī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā samiddhi bhagavato paṭissutvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. Dutiyampi kho āyasmā samiddhi tattheva appamatto ātāpī pahitatto vihāsi. Dutiyampi kho āyasmato samiddhissa rahogatassa paṭisallīnassa...pe... dutiyampi kho māro pāpimā āyasmato samiddhissa cetasā cetoparivitakkamaññāya...pe... apissudaṃ pathavī maññe undrīyati. Atha kho āyasmā samiddhi māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
‘‘Saddhāyāhaṃ pabbajito, agārasmā anagāriyaṃ;
Sati paññā ca me buddhā, cittañca susamāhitaṃ;
Kāmaṃ karassu rūpāni, neva maṃ byādhayissasī’’ti.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ samiddhi bhikkhū’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.
2. Samiddhisuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
158. Dutiye lābhā vata me, suladdhaṃ vata meti evarūpassa satthu ceva dhammassa ca sabrahmacārīnañca laddhattā mayhaṃ lābhā mayhaṃ suladdhanti. So kirāyasmā pacchā mūlakammaṭṭhānaṃ sammasitvā ‘‘arahattaṃ gahessāmī’’ti pāsādikaṃ tāva kammaṭṭhānaṃ gahetvā buddhadhammasaṅghaguṇe āvajjetvā cittakallataṃ uppādetvā cittaṃ hāsetvā tosetvā nisinno. Tenassa evamahosi. Upasaṅkamīti ‘‘ayaṃ samiddhi bhikkhu pāsādikaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā nisinnasadiso, yāva mūlakammaṭṭhānaṃ gahetvā arahattaṃ na gaṇhāti, tāvassa antarāyaṃ karissāmī’’ti upasaṅkami. Gaccha tvanti satthā sakalajambudīpaṃ olokento ‘‘tasmiṃyeva ṭhāne tassa kammaṭṭhānaṃ sappāyaṃ bhavissatī’’ti addasa, tasmā evamāha. Satipaññā ca me buddhāti mayā sati ca paññā ca ñātā. Karassu rūpānīti bahūnipi vibhiṃsakārahāni rūpāni karassu. Neva maṃ byādhayissasīti maṃ neva vedhayissasi na kampassesi. Dutiyaṃ.