Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TỈNH TÁO NHẬN THỨC MỚI XOÁ TAN NGHI HOẶC - Kinh Tissa (Tissasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TỈNH TÁO NHẬN THỨC MỚI XOÁ TAN NGHI HOẶC - Kinh Tissa (Tissasuttaṃ)

Thứ năm, 11/07/2024, 10:36 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 10.7.2024

TỈNH TÁO NHẬN THỨC MỚI XOÁ TAN NGHI HOẶC

Kinh Tissa (Tissasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm Trưởng Lão (S,iii,84)

Một trong những trở ngại của người tu tập là sự mơ hồ đối với những gì mình thực hành. Từ mơ hồ dẫn tới nghi hoặc để rồi không thể quyết đoán. Hành giả cần ý thức rõ ràng qua sự quán chiếu năm uẩn. Cái gì sanh diệt vô thường thì biết rõ. Cái gì vô thường là bất toại cũng biết rõ. Cái gì vô thường là bất toại không thể bảo rằng đó “là của ta, là ta, là tự ngã của ta” cũng biết rõ. Sự tỉnh táo biết rõ xoá tan nghi hoặc và nhờ vậy, định hướng chính xác. Tất cả người tu tập đều cần chuẩn bị, để vượt qua những giai đoạn chi phối với thân bệnh hay tâm bệnh.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ.

Tena kho pana samayena āyasmā tisso bhagavato pitucchāputto sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evamāroceti:

“api me, āvuso, madhurakajāto viya kāyo; disāpi me na pakkhāyanti; dhammāpi maṃ na paṭibhanti; thinamiddhañca me cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati; anabhirato ca brahmacariyaṃ carāmi; hoti ca me dhammesu vicikicchā”ti.

Nhân duyên ở Sāvatthi.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Tissa, cháu trai Đức Thế Tôn, nói với một số đông Tỷ-kheo:

—Này chư Hiền giả, thân tôi như bị say thuốc, không thể định rõ các phương hướng. Tôi không phân biệt được sự vật. Thụy miên, hôn trầm chiếm ngự tâm tôi. Tôi sống Phạm hạnh không còn an lạc và có nghi hoặc trong giáo pháp.

Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ: “āyasmā, bhante, tisso bhagavato pitucchāputto sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evamāroceti: ‘api me, āvuso, madhurakajāto viya kāyo; disāpi me na pakkhāyanti; dhammāpi maṃ na paṭibhanti; thinamiddhañca me cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati; anabhirato ca brahmacariyaṃ carāmi; hoti ca me dhammesu vicikicchā’”ti.

Rồi nhiều tỳ khưu đi đến Đức Thế Tôn; đảnh lễ và ngồi xuống một bên rồi bạch rằng:

—Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Tissa, cháu trai Thế Tôn, nói với một số đông Tỷ-kheo: “Này chư Hiền giả, thân tôi như bị say thuốc, không thể định rõ các phương hướng. Tôi không phân biệt được sự vật. Thụy miên, hôn trầm chiếm ngự tâm tôi. Tôi sống Phạm hạnh không còn an lạc và có nghi hoặc trong giáo pháp”.

Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi: “ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena tissaṃ bhikkhuṃ āmantehī”ti.

Đức Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:

—Này Tỳ khưu, hãy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Tissa: “Hiền giả Tissa, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!”

“Evaṃ, bhante”ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yenāyasmā tisso tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ tissaṃ etadavoca: “satthā taṃ, āvuso tissa, āmantetī”ti.

—“Thưa vâng, bạch Ngài”.

Tỳ khưu ấy trả lời ĐứcThế Tôn, rồi đi đến Tôn giả Tissa nói rằng:

—Hiền giả Tissa! Bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả.

“Evamāvuso”ti kho āyasmā tisso tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ tissaṃ bhagavā etadavoca:

—Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Tissa trả lời tỳ khưu ấy, rồi đi đến Thế Tôn đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với Tôn giả Tissa:

“saccaṃ kira tvaṃ, tissa, sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evamārocesi: ‘api me, āvuso, madhurakajāto viya kāyo …pe… hoti ca me dhammesu vicikicchā’”ti?

“Evaṃ, bhante”.

—Này Tissa, có đúng chăng Thầy đã nói “Này chư Hiền giả, thân tôi như bị say thuốc, không thể định rõ các phương hướng. Tôi không phân biệt được sự vật. Thụy miên, hôn trầm chiếm ngự tâm tôi. Tôi sống Phạm hạnh không còn an lạc và có nghi hoặc trong giáo pháp”?

—Thưa đúng, bạch Đức Thế Tôn.

“Taṃ kiṃ maññasi, tissa, rūpe avigatarāgassa avigatacchandassa avigatapemassa avigatapipāsassa avigatapariḷāhassa avigatataṇhassa, tassa rūpassa vipariṇāmaññathābhāvā uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“Evaṃ, bhante”.

—Này Tissa, Thầy nghĩ thế nào đối với người chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa hy cầu, chưa lìa khao khát, chưa lìa đam mê, chưa lìa ái chấp đối với sắc; khi sắc ấy biến đổi, hoại diệt, thì có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, ai không?

—Thưa có, bạch Thế Tôn.

“Sādhu sādhu, tissa. Evañhetaṃ, tissa, hoti. Yathā taṃ rūpe avigatarāgassa …

vedanāya … saññāya … saṅkhāresu avigatarāgassa …pe… tesaṃ saṅkhārānaṃ vipariṇāmaññathābhāvā uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti? “Evaṃ, bhante”. “Sādhu sādhu, tissa. Evañhetaṃ, tissa, hoti. Yathā taṃ saṅkhāresu anigatarāgassa, viññāṇe avigatarāgassa avigatacchandassa avigatapemassa avigatapipāsassa avigatapariḷāhassa avigatataṇhassa, tassa viññāṇassa vipariṇāmaññathābhāvā uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“Evaṃ, bhante”.

“Sādhu sādhu, tissa. Evañhetaṃ, tissa, hoti. Yathā taṃ viññāṇe avigatarāgassa.

—Đúng vậy, đúng vậy, này Tissa! Như vậy là đúng đối với người chưa ly tham đối với sắc. Này Tissa! người chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa hy cầu, chưa lìa khao khát, chưa lìa đam mê, chưa lìa ái chấp đối với đối với thọ … đối với tưởng … đối với hành … đối với thức; khi thức ấy biến đổi, hoại diệt, thì có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, ai không?

—Thưa có, bạch Thế Tôn.

—Đúng vậy, đúng vậy, này Tissa! Như vậy là đúng đối với người chưa lìa tham đối với thức.

Taṃ kiṃ maññasi, tissa, rūpe vigatarāgassa vigatacchandassa vigatapemassa vigatapipāsassa vigatapariḷāhassa vigatataṇhassa, tassa rūpassa vipariṇāmaññathābhāvā uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“No hetaṃ, bhante”.

—Này Tissa, Thầy nghĩ thế nào đối với người đã lìa tham, đã lìa dục, đã lìa hy cầu, đã lìa khao khát, đã lìa đam mê, đã lìa ái chấp đối với sắc; khi sắc ấy biến đổi, hoại diệt, thì có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, ai không?

—Thưa không, bạch Thế Tôn.

“Sādhu sādhu, tissa. Evañhetaṃ, tissa, hoti. Yathā taṃ rūpe vigatarāgassa … vedanāya … saññāya … saṅkhāresu vigatarāgassa … viññāṇe vigatarāgassa vigatacchandassa vigatapemassa vigatapipāsassa vigatapariḷāhassa vigatataṇhassa tassa viññāṇassa vipariṇāmaññathābhāvā uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti? “No hetaṃ, bhante”. “Sādhu sādhu, tissa. Evañhetaṃ, tissa, hoti. Yathā taṃ viññāṇe vigatarāgassa.

—Đúng vậy, đúng vậy, này Tissa! Như vậy là đúng đối với người đã lìa tham đối với sắc. Này Tissa, Thầy nghĩ thế nào đối với người đã lìa tham, đã lìa dục, đã lìa hy cầu, đã lìa khao khát, đã lìa đam mê, đã lìa ái chấp đối với đối với thọ … đối với tưởng … đối với hành … đối với thức; khi thức ấy biến đổi, hoại diệt, thì có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, ai không?

—Thưa không, bạch Thế Tôn.

—Đúng vậy, đúng vậy, này Tissa! Như vậy là đúng đối với người đã lìa tham đối với thức.

Taṃ kiṃ maññasi, tissa, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Aniccaṃ, bhante”.

“Vedanā … saññā … saṅkhārā … viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Aniccaṃ, bhante”.

“Tasmātiha …pe… evaṃ passaṃ …pe… nāparaṃ itthattāyāti pajānāti.

—Này Tissa, Thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

—Là vô thường, bạch Thế Tôn.

—Thọ … tưởng … các hành … thức là thường hay vô thường?

—Là vô thường, bạch Thế Tôn.

—Do vậy … thấy vậy …” … không còn trở lui trạng thái này nữa”. Vị ấy biết rõ như vậy.

Seyyathāpi, tissa, dve purisā—eko puriso amaggakusalo, eko puriso maggakusalo. Tamenaṃ so amaggakusalo puriso amuṃ maggakusalaṃ purisaṃ maggaṃ puccheyya. So evaṃ vadeyya: ‘ehi, bho purisa, ayaṃ maggo. Tena muhuttaṃ gaccha. Tena muhuttaṃ gantvā dakkhissasi dvedhāpathaṃ, tattha vāmaṃ muñcitvā dakkhiṇaṃ gaṇhāhi. Tena muhuttaṃ gaccha. Tena muhuttaṃ gantvā dakkhissasi tibbaṃ vanasaṇḍaṃ. Tena muhuttaṃ gaccha. Tena muhuttaṃ gantvā dakkhissasi mahantaṃ ninnaṃ pallalaṃ. Tena muhuttaṃ gaccha. Tena muhuttaṃ gantvā dakkhissasi sobbhaṃ papātaṃ. Tena muhuttaṃ gaccha. Tena muhuttaṃ gantvā dakkhissasi samaṃ bhūmibhāgaṃ ramaṇīyan’ti.

—Này Tissa, ví như có hai người (đi đường). Một người không giỏi về đường sá, một người giỏi về đường sá. Trong hai người ấy, người không giỏi về đường sá này hỏi người giỏi về đường sá về hành trình. Người ấy trả lời: “Hãy đi, này Bạn, đây là con đường. Hãy đi theo con đường ấy trong một đoạn sẽ thấy chia thành hai ngã rẽ. Tránh hướng trái mà đi vào hướng phải. Đi không lâu sẽ gặp khu rừng rậm. Tiến xa hơn sẽ thấy đầm lầy. Vượt qua sẽ thấy một vực thẳm. Đi thêm sẽ gặp một bình nguyên khả ái.

Upamā kho myāyaṃ, tissa, katā atthassa viññāpanāya. Ayaṃ cevettha attho:

‘puriso amaggakusalo’ti kho, tissa, puthujjanassetaṃ adhivacanaṃ.

‘Puriso maggakusalo’ti kho, tissa, tathāgatassetaṃ adhivacanaṃ arahato sammāsambuddhassa.

‘Dvedhāpatho’ti kho, tissa, vicikicchāyetaṃ adhivacanaṃ.

‘Vāmo maggo’ti kho, tissa, aṭṭhaṅgikassetaṃ micchāmaggassa adhivacanaṃ, seyyathidaṃ—micchādiṭṭhiyā …pe… micchāsamādhissa.

‘Dakkhiṇo maggo’ti kho, tissa, ariyassetaṃ aṭṭhaṅgikassa maggassa adhivacanaṃ, seyyathidaṃ—sammādiṭṭhiyā …pe… sammāsamādhissa.

‘Tibbo vanasaṇḍo’ti kho, tissa, avijjāyetaṃ adhivacanaṃ.

‘Mahantaṃ ninnaṃ pallalan’ti kho, tissa, kāmānametaṃ adhivacanaṃ.

‘Sobbho papāto’ti kho, tissa, kodhūpāyāsassetaṃ adhivacanaṃ.

‘Samo bhūmibhāgo ramaṇīyo’ti kho, tissa, nibbānassetaṃ adhivacanaṃ.

Abhirama, tissa, abhirama, tissa. Ahamovādena ahamanuggahena ahamanusāsaniyā”ti.

—Này Tissa, Ta dùng thí dụ này để nói lên nghĩa lý. Đây là ý nghĩa của thí dụ: Người không thạo đường ví cho phàm phu. Người thạo đường sá ví cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.

Con đường hai ngã ví như nghi hoặc.

Con đường hướng trái (nên tránh) ví như tà đạo tám chi phần là tà kiến … tà định.

Con đường hướng phải ví như chánh đạo tám chi phần là chánh kiến … chánh định.

Khu rừng rậm ví như vô minh.

Đầm lầy ví như dục lạc.

Vực thẳm ví như phẩn nộ.

Bình nguyên khả ái ví như niết bàn.

Hãy hoan hỷ, này Tissa! Hãy hoan hỷ, này Tissa! Ta huấn thị, Ta trợ duyên, Ta hướng dẫn cho Thầy.

Idamavoca bhagavā. Attamano āyasmā tisso bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn giả Tissa hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Chú Thích

Tôn giả Tissa là con của Quận chúa Amitā, trong vai vế họ hàng gọi Đức Phật là cậu.

Theo Sớ Giải, thì trường hợp của Tôn giả Tissa là trạng thái thân bệnh ảnh hưởng đến tâm thần. Đức Phật đã dạy cách định tĩnh để dùng trí năng khắc chế.

Trạng thái nghi hoặc của Tôn giả Tissa không nặng, như sự nghi ngờ với giáo pháp mà chỉ là do sức khoẻ nên không quyết đoán trong sự tu tập.

Theo Sớ giải, thì nhờ nghe huấn thị của Đức Phật, không lâu sau đó Tôn giả chứng quả A la hán.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Sớ Giải Kinh Tissasuttaṃ

dutiye madhurakajāto viyāti sañjātagarubhāvo viya akammañño. disāpi meti ayaṃ puratthimā ayaṃ dakkhiṇāti evaṃ disāpi mayhaṃ na pakkhāyanti, na pākaṭā hontīti vadati. dhammāpi maṃ na paṭibhantīti pariyattidhammāpi mayhaṃ na upaṭṭhahanti, uggahitaṃ sajjhāyitaṃ na dissatīti vadati. vicikicchāti no mahāvicikicchā. na hi tassa “sāsanaṃ niyyānikaṃ nu kho, na nu kho”ti vimati uppajjati. evaṃ panassa hoti “sakkhissāmi nu kho samaṇadhammaṃ kātuṃ, udāhu pattacīvaradhāraṇamattameva karissāmī”ti.

♦ kāmānametaṃ adhivacananti yathā hi ninnaṃ pallalaṃ olokentassa dassanarāmaṇeyyakamattaṃ atthi, yo panettha otarati, taṃ caṇḍamīnākulatāya ākaḍḍhitvā anayabyasanaṃ pāpeti, evamevaṃ pañcasu kāmaguṇesu cakkhudvārādīnaṃ ārammaṇe rāmaṇeyyakamattaṃ atthi, yo panettha gedhaṃ āpajjati, taṃ ākaḍḍhitvā nirayādīsu eva pakkhipanti. appassādā hi kāmā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyoti imaṃ atthavasaṃ paṭicca “kāmānametaṃ adhivacanan”ti vuttaṃ. ahamanuggahenāti ahaṃ dhammāmisānuggahehi anuggaṇhāmi. abhinandīti sampaṭicchi. na kevalañca abhinandi, imaṃ pana satthu santikā assāsaṃ labhitvā ghaṭento vāyamanto katipāhena arahatte patiṭṭhāsi. dutiyaṃ.

Ý kiến bạn đọc