- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 26.2.2025
THƯỢNG NGUỒN CỦA DÒNG SÔNG SANH TỬ
Kinh Sáu Xúc Xứ I, II, III (paṭhamachaphassāyatanasuttaṃ, dutiyachaphassāyatanasuttaṃ, tatiyachaphassāyatanasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Migajāla (SN.35.71 - 73)
Thế giới hiện tượng luôn có mấu chốt quan trọng là sanh và diệt. Chính ở đây vô thường được nhận thức. Cũng chính ở đây cho biết về nguồn cội của tử sanh đó là ái chấp, mạn chấp và kiến chấp. Một khi niệm và định được huân tu sẽ giúp hành giả nhận ra chính ở sự hội tụ của căn, cảnh và thức là thượng nguồn của dòng sông sanh tử. Càng nhận rõ sự vô thường thì càng bớt đi ảo tưởng. Chỉ có những ai có khả năng lẳng lặng quán sát dòng sông sanh tử, mới nhận ra đó là dòng chảy liên tục đổi thay mà không ai có thể chận lại hay làm gì khác hơn.
Kinh Văn
Kinh Sáu Xúc Xứ I
71. “yo hi koci, bhikkhave, bhikkhu channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānāti. avusitaṃ tena brahmacariyaṃ, ārakā so imasmā dhammavinayā”ti.
evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — “etthāhaṃ, bhante, anassasaṃ {anassasiṃ (sī.), anassāsaṃ (syā. kaṃ.), anassāsiṃ (pī.)} . ahañhi, bhante, channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānāmī”ti.
“taṃ kiṃ maññasi, bhikkhu, cakkhuṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassasī”ti?
“no hetaṃ, bhante”.
“sādhu, bhikkhu, ettha ca te, bhikkhu, cakkhu ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ bhavissati. esevanto dukkhassa ... pe ... jivhaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassasī”ti?
“no hetaṃ, bhante”.
“sādhu, bhikkhu, ettha ca te, bhikkhu, jivhā ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ bhavissati. esevanto dukkhassa ... pe ... manaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassasī”ti?
“no hetaṃ, bhante”.
“sādhu, bhikkhu, ettha ca te, bhikkhu, mano ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ bhavissati. esevanto dukkhassā”ti. navamaṃ.
71. Sáu Xứ Tiếp Xúc (1)
“Này các Tỳ khưu, nếu một Tỳ khưu không hiểu đúng như thực về sự khởi sinh và hoại diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, sự vượt thoát trong trường hợp của sáu xứ tiếp xúc, thì vị ấy chưa sống đời sống phạm hạnh; vị ấy vẫn còn cách xa Pháp và Luật này”.
Khi điều này được nói, một Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn:
“Bạch Thế Tôn, con đang bối rối, vì con không hiểu đúng như thực về sự khởi sinh và hoại diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, sự vượt thoát trong trường hợp của sáu xúc xứ”.
“Này Tỳ khưu, Thầy nghĩ thế nào, Thầy có xem mắt như thế này: ‘Đây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi’ không?”
“Bạch Thế Tôn, không”.
“Lành thay, này Tỳ khưu! Và này Tỳ khưu, ở đây Thầy nên quán chiếu rõ ràng với trí tuệ chân chánh rằng: ‘Đây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi’. Chính điều này là sự chấm dứt khổ đau.
“Thầy có xem tai như thế này... Thầy có xem ý như thế này: ‘Đây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi’ không?”
“Bạch Thế Tôn, không”.
“Lành thay, này Tỳ khưu! Và ở đây, Thầy nên quán chiếu rõ ràng với trí tuệ chân chánh rằng: ‘Đây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi’. Chính điều này là sự chấm dứt khổ đau”.
72. “yo hi koci, bhikkhave, bhikkhu channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānāti. avusitaṃ tena brahmacariyaṃ, ārakā so imasmā dhammavinayā”ti.
evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — “etthāhaṃ, bhante, anassasaṃ panassasaṃ. ahañhi, bhante, channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānāmī”ti.
“taṃ kiṃ maññasi, bhikkhu, cakkhuṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassasī”ti?
“evaṃ, bhante”.
“sādhu, bhikkhu, ettha ca te, bhikkhu, cakkhu ‘netaṃ mama, nesohamasmi na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ bhavissati. evaṃ te etaṃ paṭhamaṃ phassāyatanaṃ pahīnaṃ bhavissati āyatiṃ apunabbhavāya ... pe ....
“jivhaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassasī”ti?
“evaṃ, bhante”.
“sādhu, bhikkhu, ettha ca te, bhikkhu, jivhā ‘netaṃ mama, nesohamasmi na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ bhavissati. evaṃ te etaṃ catutthaṃ phassāyatanaṃ pahīnaṃ bhavissati āyatiṃ apunabbhavāya ... pe ....
“manaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassasī”ti?
“evaṃ, bhante”.
“sādhu, bhikkhu, ettha ca te, bhikkhu, mano ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ bhavissati. evaṃ te etaṃ chaṭṭhaṃ phassāyatanaṃ pahīnaṃ bhavissati āyatiṃ apunabbhavāyā”ti. dasamaṃ.
72. Sáu Xứ Tiếp Xúc (2)
(Hai đoạn đầu giống như trong bài kinh trước.)
“Này Tỳ khưu, Thầy nghĩ thế nào, Thầy có xem mắt như thế này: ‘Đây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi’ không?”
“Bạch Thế Tôn, có”.
“Lành thay, này Tỳ khưu! Và này Tỳ khưu, ở đây Thầy nên quán chiếu rõ ràng với trí tuệ chân chánh rằng: ‘Đây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi’. Như vậy, xứ tiếp xúc thứ nhất này sẽ được Thầy đoạn trừ, không còn tái sinh trong tương lai nữa”.
“Thầy có xem tai như thế này... Như vậy, xứ tiếp xúc thứ hai này sẽ được Thầy đoạn trừ, không còn tái sinh trong tương lai nữa”…
“Thầy có xem ý như thế này: ‘Đây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi’ không?”
“Bạch Thế Tôn, có”.
“Lành thay, này Tỳ khưu! Và ở đây, Thầy nên quán chiếu rõ ràng với trí tuệ chân chánh rằng: ‘Đây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi’. Như vậy, xứ tiếp xúc thứ sáu này sẽ được Thầy đoạn trừ, không còn sanh tử trong tương lai nữa”.
Kinh Sáu Xúc Xứ III
73. “yo hi koci, bhikkhave, bhikkhu channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānāti. avusitaṃ tena brahmacariyaṃ, ārakā so imasmā dhammavinayā”ti.
evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — “etthāhaṃ, bhante, anassasaṃ panassasaṃ. ahañhi, bhante, channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ nappajānāmī”ti.
“taṃ kiṃ maññasi, bhikkhu, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“aniccaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“dukkhaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“no hetaṃ, bhante”.
“sotaṃ... ghānaṃ... jivhā... kāyo... mano nicco vā anicco vā”ti?
“anicco, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“dukkhaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“no hetaṃ, bhante”.
“evaṃ passaṃ, bhikkhu, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, sotasmimpi nibbindati, ghānasmimpi nibbindati, jivhāyapi nibbindati, kāyasmimpi nibbindati, manasmimpi nibbindati. nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti. ekādasamaṃ.73. Sáu Xứ Tiếp Xúc (3)
(Hai đoạn đầu giống như trong bài kinh số 71.)
2. “Này Tỳ khưu, Thầy nghĩ thế nào, mắt là thường hay vô thường?”
“Bạch Thế Tôn, vô thường”.
“Cái gì vô thường thì là khổ hay lạc?”
“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Cái gì vô thường, khổ và chịu sự biến hoại, có đáng xem là ‘Đây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi’ không?”
“Bạch Thế Tôn, không”.
3. “Tai... Ý là thường hay vô thường?”
“Bạch Thế Tôn, vô thường”.
“Cái gì vô thường thì là khổ hay lạc?”
“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
“Cái gì vô thường, khổ và chịu sự biến hoại, có đáng xem là ‘Đây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi’ không?”
“Bạch Thế Tôn, không”.
4. “Thấy vậy, này Tỳ khưu, bậc Thánh đệ tử có học hiểu liền sanh tâm nhàm chán đối với mắt… nhàm chán đối với ý. Khi nhàm chán, vị ấy ly tham. Khi ly tham, tâm được giải thoát. Khi được giải thoát, vị ấy biết: ‘Đã giải thoát’. Vị ấy biết rằng: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui sự trạng này nữa’”.
Chú Thích
Ba bài kinh này đều mang chung nội dung về tâm trạng lạc lõng, mất phương hướng khi nghĩ tới còn mất của sanh hữu. Chính khả năng quán sát bản chất giả hợp của “xúc” khi căn, cảnh, thức giao thoa giúp hành giả buông xả ái chấp, mạn chấp, ái chấp.
Nếu thực tại được nắm bắt qua hiện tượng sanh diệt thì hành giả sẽ xoá tan nhiều ảo tưởng vối là cội nguồn của sanh tử.
Anassasam / Anassasim: Đây là thì quá khứ ngôi thứ nhất của động từ nassati (biến mất, diệt mất). Chú giải Spk giải thích: "Ta đã mất đi, ta đã bị lạc lối”.
Āyatiṃ apunabbhavāya: theo Sớ giải nghĩa là “không còn tái sinh trong tương lai” chính là Niết-bàn. Nghĩa là: vị ấy sẽ được từ bỏ để đạt đến Niết-bàn”.
Sớ Giải
anti avuṭṭhaṃ. ārakāti dūre. etthāhaṃ, bhante, anassasanti, bhante, ahaṃ ettha anassasiṃ, naṭṭho nāma ahanti vadati. bhagavā — “ayaṃ bhikkhu ‘ahaṃ nāma imasmiṃ sāsane naṭṭho’ti vadati, kinnu khvassa aññesu dhātukammaṭṭhāna-kasiṇakammaṭṭhānādīsu abhiyogo atthī”ti cintetvā, tampi apassanto — “kataraṃ nu kho kammaṭṭhānaṃ imassa sappāyaṃ bhavissatī”ti cintesi. tato “āyatanakammaṭṭhānameva sappāyan”ti disvā taṃ kathento taṃ kiṃ maññasi bhikkhūtiādimāha. sādhūti tassa byākaraṇe sampahaṃsanaṃ. esevanto dukkhassāti ayameva vaṭṭadukkhassanto paricchedo, nibbānanti attho.
71. Pháp Môn Sáu Xứ Xúc (1)
Phassāyatanānanti – xúc xứ - có nghĩa là những yếu tố tạo nên sự giao thoa của căn, cảnh, thức (phassa).
Avusitanti: chưa được tu tập đầy đủ.
Ārakāti: xa rời, cách biệt.
Khi vị tỳ-khưu nói: "Etthāhaṃ, bhante, anassasanti" – nghĩa là: "Bạch Thế Tôn, con cảm thấy như bị lạc lối ở đây”.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn suy xét: “Vị tỳ-khưu này nghĩ rằng mình đã mất phương hướng trong giáo pháp của Như Lai. Không biết có phải vị này đã thực hành những pháp thiền định khác như đề mục quán sát yếu tố, hoặc thiền trên kasiṇa hay không?”
Sau khi quán xét, Ngài thấy rằng vị ấy chưa thực hành những pháp ấy, liền tự nhủ:
"Pháp môn nào sẽ thích hợp cho vị này?"
Sau đó, Ngài nhận thấy rằng "pháp quán về các căn xứ (āyatana-kammaṭṭhāna)" chính là pháp thích hợp, nên Ngài thuyết giảng bài pháp về các căn xứ bắt đầu bằng câu hỏi:
"Này tỳ-khưu, ông nghĩ thế nào?"
Vị tỳ-khưu đáp lại với sự hoan hỷ: "Lành thay, bạch Thế Tôn!"
Cuối cùng, Đức Phật kết luận:
"Esevanto dukkhassāti" – "Chính pháp này là sự chấm dứt của khổ đau”.
Ở đây, "nibbāna" chính là sự đoạn tận hoàn toàn của vòng luân hồi khổ đau (vaṭṭadukkha).
72. dasame anassasanti nassasiṃ, naṭṭho nāmamhi icceva attho. āyatiṃ apunabbhavāyāti ettha āyatiṃ apunabbhavo nāma nibbānaṃ, nibbānatthāya pahīnaṃ bhavissatīti attho.
72. Pháp Môn Sáu Xứ Xúc (2)
Anassasanti có nghĩa là: "đã bị lạc lối, đã mất phương hướng”.
Nassasiṃ, naṭṭho nāmamhi: cũng mang ý nghĩa như trên – "đã mất đi, thực sự đã bị lạc trong giáo pháp này”.
Āyatiṃ apunabbhavāyāti:
73. ekādasame anassasanti naṭṭho, panassasanti atinaṭṭho. sesaṃ vuttanayeneva veditabbanti.
73. Pháp Môn Sáu Xứ Xúc (3)
Anassasanti có nghĩa là: "đã mất đi, đã bị lạc lối”.
Panassasanti có nghĩa là: " đã thực sự mất hoàn toàn, không còn tồn tại nữa”.
Các phần còn lại nên được hiểu theo cách đã giải thích trước đó.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
71.IX. Sáu Xúc Xứ (1) (S.iv,43)
1) ...
2) -- Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của sáu xúc xứ; vị ấy không thành tựu Phạm hạnh, còn đứng xa Pháp và Luật này.
3) Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con đã thất vọng (anassàsim). Bạch Thế Tôn, con không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ.
4-6) -- Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có quán con mắt: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo, do Ông như thật thấy con mắt với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"; như vậy là khéo thấy. Ðây là khổ được đoạn tận... tai... mũi...
7-8) ... lưỡi... thân...
9) Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có quán ý: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo, do Ông như thật thấy ý với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"; như vậy là khéo thấy. Ðây là khổ được đoạn tận.
72.X. Sáu Xúc Xứ (2) (S.iv,44)
1) ...
2) -- Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ; vị ấy không thành tựu Phạm hạnh, còn đứng xa Pháp và Luật này.
3) Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con thất vọng. Bạch Thế Tôn, con không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ.
4-6) -- Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có quán con mắt: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo, do Ông như thật thấy con mắt với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Như vậy là khéo thấy; như vậy xúc xứ thứ nhứt này sẽ được Ông đoạn tận, không còn tái sanh nữa trong tương lai... tai... mũi...
7-8)... lưỡi... thân...
9) Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có quán ý: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi"?
-- Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo, do Ông như thật thấy ý với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"; như vậy là khéo thấy. Như vậy xúc xứ thứ sáu này sẽ được Ông đoạn tận, không còn tái sanh nữa trong tương lai.
73.XI. Sáu Xúc Xứ (3) (S.iv,44)
1) ...
2) -- Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ; vị ấy không thành tựu Phạm hạnh, còn đứng xa Pháp và Luật này.
3) Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con thất vọng. Bạch Thế Tôn, con không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ.
4-6) -- Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
5-8) -- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Ý là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối với ý. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".