Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - THẤY VẬY KHÔNG PHẢI VẬY - Kinh Aggika (Aggikasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - THẤY VẬY KHÔNG PHẢI VẬY - Kinh Aggika (Aggikasuttaṃ)

Thứ bảy, 02/07/2022, 18:37 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 2.7.2022


THẤY VẬY KHÔNG PHẢI VẬY

Kinh Aggika (Aggikasuttaṃ)

CHƯƠNG VII. TƯƠNG ƯNG BÀ LA MÔN – PHẨM A LA HÁN THỨ NHẤT (S.i,166)

Ở đời có nhiều thứ trùng tên nhưng rất khác. Tam minh trong Bà la môn giáo không giống với tam minh trong Phật Pháp. Cúng phẩm cũng vậy. Đồ cúng thần linh không giống với thực phẩm cúng dường Phật và chư tăng. Một người có chủ ý đem thực phẩm cúng tế rồi lấy đó cúng Phật hay cúng chư tăng là điều đi ngược lại nguyên tắc của chư Phật.

Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa sappinā pāyaso sannihito hoti – ‘‘aggiṃ juhissāmi, aggihuttaṃ paricarissāmī’’ti.

Tôi được nghe như vầy

Thuở ấy Đức Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), chùa Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivāpa (khu vực cho sóc ăn trong chùa).

Bấy giờ, cơm đề hồ và sữa đông được chuẩn bị cho bà la môn Aggika Bhāradvāja vốn có chủ ý: “ta sẽ cúng thần lửa, ta sẽ thực hiện nghi thức bái hoả”

Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi. Rājagahe sapadānaṃ piṇḍāya caramāno yena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Addasā kho aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ piṇḍāya ṭhitaṃ. Disvāna bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Tīhi vijjāhi sampanno, jātimā sutavā bahū;

Vijjācaraṇasampanno, somaṃ bhuñjeyya pāyasa’’nti.

Vào buổi sáng Đức Thế Tôn đắp y, cầm y kép và bình bát đi vào Rājagaha để khất thực. Trong lúc đi khất thực theo cách tuần tự ở Rājagaha, Đức Thế Tôn đi ngang trú xứ của bà la môn Aggika Bhāradvāja và đứng trước nhà.

Bà la môn Aggika Bhāradvāja thấy Thế Tôn đi khất thực liền nói với Đức Thế Tôn bằng kệ ngôn

“Người đầy đủ ba minh

Thiện sanh và đa văn

Tri, hành đồng viên mãn

Có thể thọ món nầy.

(Thế Tôn)

‘‘Bahumpi palapaṃ jappaṃ, na jaccā hoti brāhmaṇo;

Antokasambu saṃkiliṭṭho, kuhanāparivārito.

‘‘Pubbenivāsaṃ yo vedī, saggāpāyañca passati;

Atho jātikkhayaṃ patto, abhiññāvosito muni.

‘‘Etāhi tīhi vijjāhi, tevijjo hoti brāhmaṇo;

Vijjācaraṇasampanno, somaṃ bhuñjeyya pāyasa’’nti.

“Không phải do thọ sanh

Hay trì niệm kinh chú

Mà trở thành “phạm chí”

Nếu hủ hoá, ô nhiễm

Sống dựa trên giả dối.

“Ai biết được đời trước

Biết cảnh giới khổ vui

Đoạn tận sự tái sanh

Mâu ni chứng ba minh.

“Vị ấy bậc tam minh

Là bậc Minh Hạnh Túc

Đáng thọ thực phẩm nầy

Này hỡi Bà la môn.

(Bà la môn Aggika Bhāradvāja)

‘‘Bhuñjatu bhavaṃ gotamo. Brāhmaṇo bhava’’nti.

- Mong Tôn giả thọ lãnh thực phẩm này. Tôn giả Gotama đích thực là Phạm chí.

(Thế Tôn):

‘‘Gāthābhigītaṃ me abhojaneyyaṃ,

Sampassataṃ brāhmaṇa nesa dhammo;

Gāthābhigītaṃ panudanti buddhā,

Dhamme sati brāhmaṇa vuttiresā.

‘‘Aññena ca kevalinaṃ mahesiṃ,

Khīṇāsavaṃ kukkuccavūpasantaṃ;

Annena pānena upaṭṭhahassu,

Khettañhi taṃ puññapekkhassa hotī’’ti.

“Ta không dùng cúng phẩm

Hỡi phạm chí, ấy là

Nguyên tắc bậc kiến giả

Không thọ dụng tế phẩm

Là thường pháp chư Phật

Này hỡi bà la môn.

“Hãy cúng thực phẩm khác

Bậc kiến giả, Thắng giả

Bậc đoạn lậu, Bất hối

Ruộng phước cho người trồng.

Evaṃ vutte, aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama... pe... aññataro ca panāyasmā aggikabhāradvājo arahataṃ ahosī’’ti.

Ðược nghe vậy, bà la môn Aggika Bhāradvāja bạch Đức Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Diệu Pháp được Tôn giả Gotama hiển bày như người dựng đứng những gì bị ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, hay đem đèn sáng vào chỗ tăm tối để những ai có mắt thấy được. Con xin nương tựa Đức Thế Tôn Gotama, xin nương tựa Pháp, xin nương tựa tỳ khưu Tăng. Mong Tôn giả Gotama cho con được xuất gia với Đức Thế Tôn, và được thọ đại giới.

Bà la môn Aggika Bhāradvāja được xuất gia và thọ đại giới từ Đức Thế Tôn.

Thọ giới không lâu, Tôn giả Aggika Bhāradvāja sống độc cư, viễn ly, cần mẫn, không xao lãng, quyết tâm và tự thân chứng ngộ chánh trí ngay trong kiếp hiện tại. Đây chính là cứu cánh mà những thiện gia nam tử đi tu sống không gia đình hướng tới. Vị ấy chính mình biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".

Và Tôn giả Aggika Bhāradvāja trở thành một vị A-la-hán nữa..

(Vì lý do kỹ thuật, phần thích văn sẽ được bổ túc sau)

Tên Aggika có nghĩa là người thờ lửa.

Tam minh – Tevijjā – trong ý nghĩ của ông bà la môn là sự tinh thông Tam Phệ Đà (veda). Đức Phật dùng chữ tam minh để chỉ túc mạng minh, sanh tử minh, và lậu tận minh.

Chữ Gāthābhigītaṃ chỉ cho đồ cúng. Khi thực phẩm hiến lễ thì được tán tụng với kinh văn. Cúng xong thì đem bố thí hoặc thọ dụng. Chư Phật không thọ dụng đồ cúng như vậy.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

8. Aggikasuttaṃ [Mūla]

194. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa sappinā pāyaso sannihito hoti – ‘‘aggiṃ juhissāmi, aggihuttaṃ paricarissāmī’’ti.

Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi. Rājagahe sapadānaṃ piṇḍāya caramāno yena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Addasā kho aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ piṇḍāya ṭhitaṃ. Disvāna bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Tīhi vijjāhi sampanno, jātimā sutavā bahū;

Vijjācaraṇasampanno, somaṃ bhuñjeyya pāyasa’’nti.

‘‘Bahumpi palapaṃ jappaṃ, na jaccā hoti brāhmaṇo;

Antokasambu saṃkiliṭṭho, kuhanāparivārito.

‘‘Pubbenivāsaṃ yo vedī, saggāpāyañca passati;

Atho jātikkhayaṃ patto, abhiññāvosito muni.

‘‘Etāhi tīhi vijjāhi, tevijjo hoti brāhmaṇo;

Vijjācaraṇasampanno, somaṃ bhuñjeyya pāyasa’’nti.

‘‘Bhuñjatu bhavaṃ gotamo. Brāhmaṇo bhava’’nti.

‘‘Gāthābhigītaṃ me abhojaneyyaṃ,

Sampassataṃ brāhmaṇa nesa dhammo;

Gāthābhigītaṃ panudanti buddhā,

Dhamme sati brāhmaṇa vuttiresā.

‘‘Aññena ca kevalinaṃ mahesiṃ,

Khīṇāsavaṃ kukkuccavūpasantaṃ;

Annena pānena upaṭṭhahassu,

Khettañhi taṃ puññapekkhassa hotī’’ti.

Evaṃ vutte, aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama... pe... aññataro ca panāyasmā aggikabhāradvājo arahataṃ ahosī’’ti.

8. Aggikasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

194. Aṭṭhame aggikabhāradvājoti ayampi bhāradvājova, aggi paricaraṇavasena panassa saṅgītikārehi etaṃ nāmaṃ gahitaṃ. Sannihito hotīti saṃyojito hoti. Aṭṭhāsīti kasmā tattha aṭṭhāsi? Bhagavā kira paccūsasamaye lokaṃ olokento imaṃ brāhmaṇaṃ disvā cintesi – ‘‘ayaṃ brāhmaṇo evarūpaṃ aggapāyāsaṃ gahetvā ‘mahābrahmānaṃ bhojemī’ti aggimhi jhāpento aphalaṃ karoti apāyamaggaṃ okkamati, imaṃ laddhiṃ avissajjanto apāyapūrakova bhavissati, gacchāmissa dhammadesanāya, micchādiṭṭhiṃ bhinditvā pabbājetvā cattāro magge ceva cattāri ca phalāni demī’’ti, tasmā pubbaṇhasamaye rājagahaṃ pavisitvā tattha aṭṭhāsi.

Tīhi vijjāhīti tīhi vedehi. Jātimāti yāva sattamā pitāmahayugā parisuddhāya jātiyā samannāgato. Sutavā bahūti bahu nānappakāre ganthe sutavā. Somaṃ bhuñjeyyāti so tevijjo brāhmaṇo imaṃ pāyāsaṃ bhuñjituṃ yutto, tumhākaṃ panesa pāyāso ayuttoti vadati.

Vedīti pubbenivāsañāṇena jāni paṭivijjhi. Saggāpāyanti dibbena cakkhunā saggampi apāyampi passati. Jātikkhayanti arahattaṃ. Abhiññāvositoti jānitvā vositavosāno. Brāhmaṇo bhavanti avīcito yāva bhavaggā bhotā gotamena sadiso jātisampanno khīṇāsavabrāhmaṇo natthi, bhavaṃyeva brāhmaṇoti.

Evañca pana vatvā suvaṇṇapātiṃ pūretvā dasabalassa pāyāsaṃ upanāmesi. Satthā uppattiṃ dīpetvā bhojanaṃ paṭikkhipanto gāthābhigītaṃ metiādimāha. Tattha gāthābhigītanti gāthāhi abhigītaṃ. Abhojaneyyanti abhuñjitabbaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – tvaṃ, brāhmaṇa, mayhaṃ ettakaṃ kālaṃ bhikkhācāravattena ṭhitassa kaṭacchumattampi dātuṃ nāsakkhi, idāni pana mayā tuyhaṃ kilañjamhi tile vitthārentena viya sabbe buddhaguṇā pakāsitā, iti gāyanena gāyitvā laddhaṃ viya idaṃ bhojanaṃ hoti, tasmā idaṃ gāthābhigītaṃ me abhojaneyyanti. Sampassataṃ, brāhmaṇa, nesa dhammoti, brāhmaṇa, atthañca dhammañca sampassantānaṃ ‘‘evarūpaṃ bhojanaṃ bhuñjitabba’’nti esa dhammo na hoti. Sudhābhojanampi gāthābhigītaṃ panudanti buddhā, gāthāhi gāyitvā laddhaṃ buddhā nīharantiyeva. Dhamme sati, brāhmaṇa, vuttiresāti, brāhmaṇa, dhamme sati dhammaṃ apekkhitvā dhamme patiṭṭhāya jīvitaṃ kappentānaṃ esā vutti ayaṃ ājīvo – evarūpaṃ nīharitvā dhammaladdhameva bhuñjitabbanti.

Atha brāhmaṇo cintesi – ahaṃ pubbe samaṇassa gotamassa guṇe vā aguṇe vā na jānāmi. Idāni panassāhaṃ guṇe ñatvā mama gehe asītikoṭimattaṃ dhanaṃ sāsane vippakiritukāmo jāto, ayañca ‘‘mayā dinnapaccayā akappiyā’’ti vadati. Appaṭiggayho ahaṃ samaṇena gotamenāti. Atha bhagavā sabbaññutaññāṇaṃ pesetvā tassa cittācāraṃ vīmaṃsanto, ‘‘ayaṃ sabbepi attanā dinnapaccaye ‘akappiyā’ti sallakkheti. Yaṃ hi bhojanaṃ ārabbha kathā uppannā, etadeva na vaṭṭati, sesā niddosā’’ti brāhmaṇassa catunnaṃ paccayānaṃ dānadvāraṃ dassento aññena cātiādimāha. Tattha kukkuccavūpasantanti hatthakukkuccādīnaṃ vasena vūpasantakukkuccaṃ. Annena pānenāti desanāmattametaṃ. Ayaṃ panattho – aññehi tayā ‘‘pariccajissāmī’’ti sallakkhitehi cīvarādīhi paccayehi upaṭṭhahassu. Khettaṃ hi taṃ puññapekkhassa hotīti etaṃ tathāgatasāsanaṃ nāma puññapekkhassa puññatthikassa tuyhaṃ appepi bīje bahusassaphaladāyakaṃ sukhettaṃ viya paṭiyattaṃ hoti. Aṭṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc