Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || THẤY RÕ TOÀN BỘ SỰ BÁM VÍU - Kinh Liễu Tri Nhất Thiết Thủ Chấp (sabbupādānapariññāsuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || THẤY RÕ TOÀN BỘ SỰ BÁM VÍU - Kinh Liễu Tri Nhất Thiết Thủ Chấp (sabbupādānapariññāsuttaṃ)

Thứ sáu, 14/02/2025, 21:48 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 08.02.2025

THẤY RÕ TOÀN BỘ SỰ BÁM VÍU

Kinh Liễu Tri Nhất Thiết Thủ Chấp (sabbupādānapariññāsuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Vô Minh (SN.35.60)

Sự chấp thủ là phần tâm lý khó chuyển đổi của chúng sanh. Thái độ khư khư chấp chặt đối với thị hiếu, quan điểm, sự hành trì và “cái tôi” là những điều rất khó gỡ. Phải thấy được tất cả tuỳ thuộc vào nhiều nhân, nhiều duyên không thật sự có cốt lõi, trường cữu thì mới tự mình trở về với tâm thái rỗng rang vô chấp. Thấy được nhân duyên kết hợp, thì mới thấy sự mong manh. Một bữa cơm ngon không phải chỉ thức ăn ngon mà còn bụng có đói, người cùng ăn có vui, thời điểm có thích hợp… Thấy được nhiều yếu tố thì thấy được tính tương đối.

Kinh văn

60. “sabbupādānapariññāya vo, bhikkhave, dhammaṃ desessāmi. taṃ suṇātha. katamo ca, bhikkhave, sabbupādānapariññāya dhammo? cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṃ. tiṇṇaṃ saṅgati phasso. phassapaccayā vedanā. evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, rūpesupi nibbindati, cakkhuviññāṇepi nibbindati, cakkhusamphassepi nibbindati, vedanāyapi nibbindati. nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimokkhā {vimokkhaṃ (ka.), vimokkha (syā. kaṃ.)} ‘pariññātaṃ me upādānan’ti pajānāti. sotañca paṭicca sadde ca uppajjati... ghānañca paṭicca gandhe ca... jivhañca paṭicca rase ca... kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca... manañca paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṃ. tiṇṇaṃ saṅgati phasso. phassapaccayā vedanā. evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako manasmimpi nibbindati, dhammesupi nibbindati, manoviññāṇepi nibbindati, manosamphassepi nibbindati, vedanāyapi nibbindati. nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimokkhā ‘pariññātaṃ me upādānan’ti pajānāti. ayaṃ kho, bhikkhave, sabbupādānapariññāya dhammo”ti. aṭṭhamaṃ.

60. “Này chư Tỳ khưu, Ta sẽ giảng Pháp cho các Thầy về sự liễu tri tất cả chấp thủ.

“Này chư Tỳ khưu, thế nào là sự liễu tri tất cả chấp thủ?

Tuỳ thuộc vào mắt, cảnh sắc nên nhãn thức sanh khởi. Sự hội tụ ba yếu tố gọi là xúc. Với xúc là điều kiện thọ sanh khởi. Vị thánh đệ tử có học hiểu thấy vậy cảm nhận sự nhàm chán đối với mắt, đối với cảnh sắc, đối với nhãn xúc, đới với cảm thọ. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham tâm được giải thoát. Với sự giải thoát vị ấy biết rõ: “Chấp thủ đã được tự thân liễu tri”.

Tuỳ thuộc vào tai, cảnh thinh…

Tuỳ thuộc vào mũi, cảnh khí…

Tuỳ thuộc vào lưỡi. cảnh vị…

Tuỳ thuộc vào thân. cảnh xúc…

Tuỳ thuộc vào ý, cảnh pháp nên ý thức sanh khởi. Sự hội tụ ba yếu tố gọi là xúc. Với xúc là điều kiện thọ sanh khởi. Vị thánh đệ tử có học hiểu thấy vậy cảm nhận sự nhàm chán đối với ý, đối với cảnh pháp, đối với ý xúc, đới với cảm thọ. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham tâm được giải thoát. Với sự giải thoát vị ấy biết rõ: “Chấp thủ đã được tự thân liễu tri”.

“Này Tỳ khưu, khi một người biết và thấy rằng mắt là vô thường, thì kiết sử được từ bỏ. Khi một người biết và thấy rằng sắc là vô thường, thì kiết sử được từ bỏ. Khi một người biết và thấy rằng nhãn thức là vô thường... khi biết và thấy rằng nhãn xúc là vô thường... Khi biết và thấy rằng bất cứ cảm thọ nào khởi sinh do duyên nhãn xúc—dù là lạc thọ, khổ thọ hay thọ không khổ không lạc—là vô thường, thì kiết sử được từ bỏ.

“Này chư Tỳ khưu, đây là sự liễu tri tất cả chấp thủ”.

Chú Thích

 

Có bốn loại chấp thủ (catunnampi upādānānaṃ):

  1. Dục thủ (kāmupādāna) là sự bám víu do thị dục.
  2. Kiến thủ (diṭṭhupādāna) là sự bám víu vào quan điểm hay cái nhìn.
  3. Giới cấm thủ (sīlabbatupādāna) là sự bám víu vào những hành trì vô bổ đặc biệt là mê tín dị đoan.
  4. Ngã luận thủ (attavādupādāna) là sự bám víu vào sự tự thị cá nhân.

Sự hiểu biết này đạt được thông qua ba loại trí tuệ (tīhi pariññāhi):

  1. Ñāta-pariññā: Tri kiến tổng quan là sự hiểu biết chung.
  2. Tīraṇa-pariññā: Trí tuệ phân tích là sự hiểu biết những yếu tố kết hợp.
  3. Pahāna-pariññā: Trí tuệ đoạn trừ (phiền não liên hệ pháp ấy).

Chấp thủ là sự bám chấp rất khó buông bỏ. Sự từ bỏ chỉ đến từ sự hiểu biết sâu sắc với đầy đủ ngọn ngành.

Khi nói “liễu tri tất cả” có nghĩa là sự thấy biết tường tận các phương diện căn, cảnh, thức, xúc, thọ theo duyên khởi “do cái này có nên cái kia có” tạo thành tác động dây chuyền. Như một người vướng mắc vào hình ảnh nào đó do mắt thấy cảnh sanh tâm ái chấp; một khi không tiếp tục (với nhãn xúc) thì cảm thọ cũng mờ nhạt dần. Không có cái còn mãi mà tuỳ thuộc ở nhiều nhân, nhiều duyên để tồn tại. Nhân và duyên ở đây có yếu tố bên trong lẫn bên ngoài. Thấy được sự mong manh, tụ tán giả hợp, biến đổi vô chừng sẽ giúp hành giả bào mòn sự chấp thủ.

Sớ Giải

53-62. avijjāvagge avijjāti catūsu saccesu aññāṇaṃ. vijjāti arahattamaggavijjā. aniccato jānato passatoti dukkhānattavasenāpi jānato passato pahīyatiyeva, idaṃ pana aniccavasena kathite bujjhanakapuggalassa ajjhāsayena vuttaṃ. eseva nayo sabbattha. api cettha saṃyojanāti dasa saṃyojanāni. āsavāti cattāro āsavā. anusayāti satta anusayā. sabbupādānapariññāyāti sabbesaṃ catunnampi upādānānaṃ tīhi pariññāhi parijānanatthāya. pariyādānāyāti khepanatthāya. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Chú thích các bài kinh từ số 53 đến 62

"Avijjā" (Vô minh) Là sự không biết về bốn sự thật (catūsu saccesu aññāṇaṃ), tức là không hiểu rõ Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).

"Vijjā" (Trí tuệ): Ở đây đề cập đến trí tuệ của tứ đạo a la hán (arahattamaggavijjā), tức là sự giác ngộ hoàn toàn.

"Aniccato jānato passato" (Biết và thấy theo khía cạnh vô thường) Khi biết và thấy vô thường, thì vô minh được đoạn trừ và trí tuệ sinh khởi. Mặc dù vô minh cũng có thể được từ bỏ khi thấy sự khổ (dukkha) và vô ngã (anatta), nhưng ở đây nhấn mạnh vào sự vô thường (anicca), vì đó là cách dễ làm thức tỉnh một người chưa giác ngộ (bujjhanakapuggala).

"Saṃyojanā" (Các kiết sử) Đây là mười kiết sử (dasa saṃyojanāni), "Āsavā" (Các lậu hoặc) Gồm bốn loại lậu hoặc (cattāro āsavā):"Anusayā" (Các tùy miên – phiền não tiềm ẩn) Gồm bảy loại tùy miên (satta anusayā):Sabbupādānapariññāyā" (Liễu tri các thủ) Gồm bốn loại chấp thủ (catunnampi upādānānaṃ):"Pariyādānāya" (Sự diệt tận hoàn toàn) có nghĩa là sự tiêu diệt hoàn toàn (khepanatthāya), tức là đoạn trừ tất cả các kiết sử và lậu hoặc.

"Eseva nayo sabbattha" (Cũng theo cách này ở mọi chỗ khác) Điều này có nghĩa là nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các căn và pháp khác.

"Sesaṃ sabbattha uttānameva" (Phần còn lại đều rõ ràng) Câu này có nghĩa rằng các bài kinh còn lại đã quá rõ ràng và không cần giải thích thêm.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.

60.VIII. Liễu Tri (Parijnnà) (S.iv,32)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về pháp đưa đến liễu tri tất cả chấp thủ. Hãy lắng nghe.

3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp đưa đến liễu tri tất cả chấp thủ?

4) Do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức. Do ba pháp này hợp lại có xúc. Do duyên xúc có thọ. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc, nhàm chán đối với với thọ. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Nhờ giải thoát, vị ấy biết rõ: "Ta đã liễu tri chấp thủ".

5-8) Do duyên tai và các tiếng khởi lên nhĩ thức... Do duyên mũi và các hương... Do duyên lưỡi và các vị... Do duyên thân và các xúc...

9) Do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức. Do ba pháp này hợp lại có xúc. Do duyên xúc có thọ. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc, nhàm chán đối với thọ. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Nhờ giải thoát, vị ấy biết rõ: "Ta đã liễu tri chấp thủ".

10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa đến liễu tri tất cả chấp thủ.

 

Ý kiến bạn đọc