Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || THÂN VIỄN LY, TÂM VIỄN LY - Kinh Migajāla I (paṭhamamigajālasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || THÂN VIỄN LY, TÂM VIỄN LY - Kinh Migajāla I (paṭhamamigajālasuttaṃ)

Thứ sáu, 14/02/2025, 22:10 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 12.2.2025

THÂN VIỄN LY, TÂM VIỄN LY

Kinh Migajāla I (paṭhamamigajālasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Migajāla (SN.35.63)

Một trong những trọng điểm mà người tu tập cần nhận thức là vượt qua hình tướng, để nắm bắt được thực chất. Chiếc y ca sa, bình bát độ nhật có thể là những tư cụ thiết yếu để trở thành một sa môn. Nhưng đời tu không phải chỉ có vậy. Đi xa hơn là khả năng sống một mình. Am thất thanh vắng hay rừng sâu núi thẳm có thể nói lên phần nào tâm lý thoát trần, nhưng phải rất cẩn trọng vì đôi khi sống độc cư chỉ là một sở thích cá nhân. Tất cả sự tham cầu những điều vừa lòng toại ý đối với sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đều là thực chất “chung sống với bạn đồng hành” và làm hỏng giá trị thật sự của đời sống độc cư.

Kinh văn

63. sāvatthinidānaṃ. atha kho āyasmā migajālo yena bhagavā ... pe ... ekamantaṃ nisinno kho āyasmā migajālo bhagavantaṃ etadavoca — “‘ekavihārī, ekavihārī’ti, bhante, vuccati. kittāvatā nu kho, bhante, ekavihārī hoti, kittāvatā ca pana sadutiyavihārī hotī”ti?

“santi kho, migajāla, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandī {nandi (sī. syā. kaṃ. pī.)} . nandiyā sati sārāgo hoti; sārāge sati saṃyogo hoti. nandisaṃyojanasaṃyutto kho, migajāla, bhikkhu sadutiyavihārīti vuccati. santi ... pe ... santi kho, migajāla, jivhāviññeyyā rasā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandī. nandiyā sati sārāgo hoti; sārāge sati saṃyogo hoti. nandisaṃyojanasaṃyutto kho, migajāla, bhikkhu sadutiyavihārīti vuccati. evaṃvihārī ca, migajāla, bhikkhu kiñcāpi araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevati appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhasseyyakāni {manussarāhaseyyakāni (sī. syā. kaṃ. pī.)} paṭisallānasāruppāni; atha kho sadutiyavihārīti vuccati. taṃ kissa hetu? taṇhā hissa dutiyā, sāssa appahīnā. tasmā sadutiyavihārī”ti vuccati.

“santi ca kho, migajāla, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati. tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato nandī nirujjhati. nandiyā asati sārāgo na hoti; sārāge asati saṃyogo na hoti. nandisaṃyojanavisaṃyutto kho, migajāla, bhikkhu ekavihārīti vuccati ... pe ... santi ca kho, migajāla, jivhāviññeyyā rasā ... pe ... santi ca kho, migajāla, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā. tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati. tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato nandī nirujjhati. nandiyā asati sārāgo na hoti; sārāge asati saṃyogo na hoti. nandisaṃyojanavippayutto kho, migajāla, bhikkhu ekavihārīti vuccati. evaṃvihārī ca, migajāla, bhikkhu kiñcāpi gāmante viharati ākiṇṇo bhikkhūhi bhikkhunīhi upāsakehi upāsikāhi rājūhi rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi. atha kho ekavihārīti vuccati. taṃ kissa hetu? taṇhā hissa dutiyā, sāssa pahīnā. tasmā ekavihārīti vuccatī”ti. paṭhamaṃ.

Tại Sāvatthī. Bấy giờ Tôn giả Migajāla đi đến Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, được nói rằng: ‘người sống một mình, người sống một mình’. Bạch Thế Tôn, như thế nào là một người sống một mình và như thế nào là một người sống cùng bạn đồng hành?”

“Này Migajāla, có những sắc được nhận thức bởi mắt, đáng ưa, dễ thương, khả ái, hấp dẫn, lôi cuốn, kích thích dục vọng. Nếu một tỳ-kheo tìm lạc thú trong chúng, hoan hỷ với chúng và chấp thủ chúng, thì lạc hỷ khởi lên. Khi có lạc hỷ thì có si mê. Khi có si mê thì có trói buộc. Bị trói buộc bởi xiềng xích của lạc hỷ, này Migajāla, một tỳ khưu được gọi là người sống cùng bạn đồng hành.

“Cũng vậy, này Migajāla, có những âm thanh được nhận thức bởi tai… hương được nhận thức bởi mũi… vị được nhận thức bởi lưỡi… xúc được nhận thức bởi thân… pháp được nhận thức bởi tâm, đáng ưa, dễ thương, khả ái, hấp dẫn, lôi cuốn, kích thích dục vọng. Nếu một tỳ-kheo tìm lạc thú trong chúng… thì vị ấy được gọi là người sống cùng bạn đồng hành.

“Này Migajāla, ngay cả khi một tỳ khưu sống như vậy mà trú tại rừng sâu, trong những chỗ ở xa xôi, nơi có ít tiếng động và ít ồn ào, hoang vắng, khuất xa mọi người, thích hợp cho sự tĩnh lặng, thì vị ấy vẫn được gọi là người sống cùng bạn đồng hành. Vì sao vậy? Vì tham ái là bạn đồng hành của vị ấy và vị ấy chưa từ bỏ nó; do đó vị ấy được gọi là người sống cùng bạn đồng hành.

“Này Migajāla, có những sắc được nhận thức bởi mắt, đáng ưa, dễ thương, khả ái, hấp dẫn, lôi cuốn, kích thích dục vọng. Nếu một tỳ-kheo không tìm lạc thú trong chúng, không hoan hỷ với chúng, không chấp thủ chúng, thì lạc hỷ chấm dứt. Khi không có lạc hỷ thì không có si mê. Khi không có si mê thì không có trói buộc. Được giải thoát khỏi xiềng xích của lạc hỷ, này Migajāla, một tỳ khưu được gọi là người sống một mình.

“Cũng vậy, này Migajāla, có những âm thanh được nhận thức bởi tai… hương được nhận thức bởi mũi… vị được nhận thức bởi lưỡi… xúc được nhận thức bởi thân… pháp được nhận thức bởi tâm, đáng ưa, dễ thương, khả ái, hấp dẫn, lôi cuốn, kích thích dục vọng. Nếu một tỳ khưu không tìm lạc thú trong chúng… thì vị ấy được gọi là người sống một mình.

“Này Migajāla, ngay cả khi một tỳ khưu sống như vậy mà ở gần làng mạc, giao du với các tỳ khưu và tỳ khưu ni, với nam cư sĩ và nữ cư sĩ, với vua chúa và đại thần, với các giáo chủ ngoại đạo và đệ tử của họ, thì vị ấy vẫn được gọi là người sống một mình. Vì sao vậy? Vì tham ái vốn là bạn đồng hành của vị ấy và vị ấy đã từ bỏ nó; do đó vị ấy được gọi là người sống một mình.”

Chú Thích

 

Tôn giả Migajāla là con trai của bà Visākhā, đệ nhất nữ cư sĩ trong giáo pháp của Đức Phật. Ngài xuất gia do nghe Phật thuyết pháp và chỉ một thời gian ngắn chứng thánh quả a la hán.

Sống một mình hay sống viễn ly là điểm nhấn quan trọng của hành trình tu tập. Trong nhiều bài kinh như trong Trung Bộ có ba thứ viễn ly – viveka - được đề cập:

Kāya viveka – thân viễn ly – là nếp ẩn cư xa lánh những chỗ ồn ào, đông người.

Citta viveka – tâm viễn ly – là sự an tịnh nội tâm với sự không truy cầu dục lạc.

Upadhi viveka - sở y viễn ly - chỉ cho niết bàn vượt thoát tất cả bám chấp và hệ luỵ.

Nội dung bài kinh này đặc biệt nói tới tâm viễn ly (citta viveka).

Sống ẩn dật nơi an tịnh là điều tốt để tu tập nội tại, nhưng không nên quá tự tin là khi sống trong chỗ thanh tịnh thì là người biết sống độc cư. Đức Phật dạy rõ cho đến khi nào một người tu tập không tầm cầu những thứ thoả mãn thị dục thì mới gọi là thật sự sống một mình (không đồng hành cùng tham ái).

Sớ Giải

 63. migajālavaggassa paṭhame cakkhuviññeyyāti cakkhuviññāṇena passitabbā. sotaviññeyyādīsupi eseva nayo. iṭṭhāti pariyiṭṭhā vā hontu mā vā, iṭṭhārammaṇabhūtāti attho. kantāti kamanīyā. manāpāti manavaḍḍhanakā. piyarūpāti piyajātikā. kāmūpasaṃhitāti ārammaṇaṃ katvā uppajjamānena kāmena upasaṃhitā rajanīyāti rañjanīyā, rāguppattikāraṇabhūtāti attho. nandīti taṇhānandī. saṃyogoti saṃyojanaṃ. nandisaṃyojanasaṃyuttoti nandībandhanena baddho. araññavanapatthānīti araññāni ca vanapatthāni ca. tattha kiñcāpi abhidhamme nippariyāyena “nikkhamitvā bahi indakhīlā sabbametaṃ araññan”ti (vibha. 529) vuttaṃ, tathāpi yaṃ taṃ “pañcadhanusatikaṃ pacchiman”ti (pārā. 654) araññakaṅganipphādakaṃ senāsanaṃ vuttaṃ, tadeva adhippetanti veditabbaṃ. vanapatthanti gāmantaṃ atikkamitvā manussānaṃ anupacāraṭṭhānaṃ, yattha na kasīyati na vapīyati. vuttampi cetaṃ —

“vanapatthanti dūrānametaṃ senāsanānaṃ adhivacanaṃ. vanapatthanti vanasaṇḍānametaṃ, vanapatthanti bhiṃsanakānametaṃ, vanapatthanti salomahaṃsānametaṃ, vanapatthanti pariyantānametaṃ, vanapatthanti amanussūpacārānaṃ senāsanānametaṃ adhivacanan”ti (vibha. 531).

ettha ca pariyantānanti imaṃ ekaṃ pariyāyaṃ ṭhapetvā sesapariyāyehi vanapatthāni veditabbāni. pantānīti pariyantāni atidūrāni. appasaddānīti udukkhalamusaladārakasaddādīnaṃ abhāvena appasaddāni. appanigghosānīti tesaṃ tesaṃ ninnādamahānigghosassa abhāvena appanigghosāni. vijanavātānīti sañcaraṇajanassa sarīravātavirahitāni. manussarāhasseyyakānīti manussānaṃ rahokammassa anucchavikāni. paṭisallānasāruppānīti nilīyanasāruppāni.

63. Bài kinh đầu tiên trong phẩm Migajāla

Cakkhuviññeyyā có nghĩa là "được nhận thức bởi nhãn thức" – tức là những gì có thể được thấy bằng mắt. Tương tự như vậy, sotaviññeyyā và những trường hợp khác cũng mang ý nghĩa tương tự, tức là những gì có thể được nhận thức bởi nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Iṭṭhā có nghĩa là "đáng ưa thích" dù nó có được mong cầu hay không, nhưng ở đây nó có nghĩa là những đối tượng đáng ưa thích. Kantā có nghĩa là "đáng yêu". Manāpā có nghĩa là "làm cho tâm được vui thích, dễ chịu". Piyarūpā có nghĩa là "thuộc về điều đáng yêu".

Kāmūpasaṃhitā có nghĩa là bị ràng buộc bởi dục lạc, tức là những gì có thể kích thích sự tham ái khi lấy nó làm đối tượng. Rajanīyā có nghĩa là những gì làm phát sinh sự luyến ái. Rāguppattikāraṇabhūtā có nghĩa là nguyên nhân làm khởi lên dục ái.

Nandi có nghĩa là sự thích thú. Saṃyoga có nghĩa là sự trói buộc. Nandisaṃyojanasaṃyutta có nghĩa là bị ràng buộc bởi xiềng xích của tham ái.

Arañña có nghĩa là rừng hoang, vanapattha có nghĩa là những khu vực rừng núi xa xôi. Mặc dù trong Thắng Pháp có nói một cách rốt ráo rằng:
"Nikkhamitvā bahi indakhīlā sabbametaṃ arañña" (Vibha. 529) tức là "bước ra ngoài cột ranh giới Indakhīla thì tất cả đều được gọi là rừng"
, nhưng điều này nên hiểu rằng những nơi được gọi là "Araññakaṅganipphādakaṃ senāsanaṃ" (Pārā. 654), tức là những chỗ cư trú phù hợp cho đời sống ẩn cư, cũng được gọi là arañña.

Vanapattha có nghĩa là khu vực rừng núi xa khu dân cư, nơi con người không thường xuyên lui tới, không có hoạt động canh tác như cày cấy hay gieo trồng. Như trong Kinh tạng có nói:

  • "Vanapattha là thuật ngữ chỉ các chỗ cư trú xa xôi".
  • "Vanapattha là những khu rừng rậm rạp".
  • "Vanapattha là những nơi đáng sợ".
  • "Vanapattha là những nơi khiến lông tóc dựng đứng".
  • "Vanapattha là những khu vực hẻo lánh".
  • "Vanapattha là thuật ngữ chỉ những nơi cư trú của các phi nhân". (Vibha. 531)

Ở đây, ngoại trừ nghĩa pariyanta (rìa ngoài của khu rừng), các nghĩa còn lại đều có thể hiểu là vanapattha.

Pantāni có nghĩa là những nơi ở xa xôi, cách biệt. Appasaddāni có nghĩa là những nơi ít âm thanh, tức là không có tiếng ồn của cối giã gạo, chày, trẻ em chơi đùa, v.v. Appanigghosāni có nghĩa là không có âm thanh vang vọng lớn.

Vijanavātāni có nghĩa là không có những cơn gió từ cơ thể của những người đi lại, tức là ít có người qua lại. Manussarāhasseyyakāni có nghĩa là những nơi thích hợp để con người thực hành những pháp môn cần đến sự riêng tư. Paṭisallānasāruppāni có nghĩa là những nơi thích hợp cho sự tịnh cư và ẩn dật.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.

II. Phẩm Migajàla

63.I. Bởi Migajàla (S.iv,35)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi...

2) Tôn giả Migajàla đi đến Thế Tôn...

3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Migajàla bạch Thế Tôn:

-- "Sống một mình! Sống một mình!", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là sống một mình? Và cho đến như thế nào là sống có người thứ hai?

4) -- Này Migajàla, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy ; do vị ấy hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy nên hỷ (nandi) khởi lên. Do hỷ có mặt nên dục tham (sàràgo) có mặt. Do dục tham có mặt nên triền phược có mặt. Bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo được gọi là người sống có người thứ hai.

5-8) ... có những tiếng do tai nhận thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi nhận thức... có những xúc do thân nhận thức...

9) Này Migajàla, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến pháp ấy ; do vị ấy hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến pháp ấy nên hỷ khởi lên. Do hỷ có mặt nên dục tham có mặt. Do dục tham có mặt nên triền phược có mặt. Bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo được gọi là người sống có người thứ hai.

10) Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajàla, dầu cho đến ở các trú xứ xa vắng, các khóm rừng, các khu rừng, ít tiếng động, ít ồn ào, khỏi hơi thở quần chúng (vijanavàtàni), vắng người, thích hợp với tịnh; dầu vậy, vẫn được gọi là sống với người thứ hai.

11) Vì sao? Vì rằng ái, người thứ hai, chưa được đoạn tận cho nên được gọi là sống có người thứ hai.

12-14) Và này Migajala, có các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương và trú với lòng không tham luyến pháp ấy; thời do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương và trú với lòng không tham luyến pháp ấy, nên hỷ đoạn diệt; thời do hỷ không có mặt nên dục tham không có mặt. Do dục tham không có mặt nên triền phược không có mặt. Do không bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo được gọi là người trú một mình.

15-16) ...Này Migajàla, có những vị do lưỡi nhận thức...

17) Này Migajàla, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương và trú với tâm không tham luyến pháp ấy; thời do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương, trú với tâm không tham luyến pháp ấy nên hỷ đoạn diệt. Do hỷ không có mặt nên dục tham không có mặt. Do dục tham không có mặt nên triền phược không có mặt. Do không bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo được gọi là người trú một mình.

18) Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajàla, dầu có ở giữa làng tràn đầy những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần của vua, các ngoại đạo và các đệ tử các ngoại đạo, vị ấy vẫn được gọi là vị sống một mình.

19) Vì sao? Vì rằng ái, người thứ hai, được đoạn tận, do vậy được gọi là sống một mình.

 

Ý kiến bạn đọc