- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 25.12.2022
THÂN HƠN CẢ NGƯỜI THÂN
Kinh Punabbasu (Punabbasusuttaṃ)
CHƯƠNG X. TƯƠNG DẠ XOA (S. i, 209)
Tình mẹ thương con là thứ tình sâu đậm khó có thứ tình nào khác so sánh được. Mẹ tay bồng tay dắt con đi giữa cuộc đời trong cuộc sinh tồn lại gắn bó nhiều hơn. Một dịp tình cờ mẹ con đang đi nghe được chánh pháp nhiệm mầu về niết bàn diệt khổ. Lần đầu mẹ cảm nhận hương vị chánh pháp thân thương hơn cả người thân. Lãnh hội pháp cao siêu là thấy được Đức Phật là đấng giác ngộ vô thượng. Thấy được sự tối tôn của Phật là cõi lòng thênh thang vượt lên hạn cuộc thường tình. Những giây phút đứng giữa lằn ranh của tình mẫu tử thiêng liêng và đạo giải thoát thật là khó diễn tả bằng ngôn từ. Chỉ mong được im lặng để cảm nhận.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho punabbasumātā yakkhinī puttake evaṃ tosesi –
Một thuở Đức Thế Tôn ngự ở Sāvatthi (Xá Vệ), tại Jetavana (Kỳ Viên), ngôi già lam do ông Anāthapiṇḍika dâng cúng.
Bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo. Ngài khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với đề tài về niết bàn. Chư tỳ kheo lắng nghe, chăm chú, suy nghiệm.
Lúc ấy nữ dạ xoa của Punabbasu, nói khẽ với con như sau:
‘‘Tuṇhī uttarike hohi, tuṇhī hohi punabbasu;
Yāvāhaṃ buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ sossāmi satthuno.
‘‘Nibbānaṃ bhagavā āha, sabbaganthappamocanaṃ;
Ativelā ca me hoti, asmiṃ dhamme piyāyanā.
‘‘Piyo loke sako putto, piyo loke sako pati;
Tato piyatarā mayhaṃ, assa dhammassa magganā.
‘‘Na hi putto pati vāpi, piyo dukkhā pamocaye;
Yathā saddhammassavanaṃ, dukkhā moceti pāṇinaṃ.
‘‘Loke dukkhaparetasmiṃ, jarāmaraṇasaṃyute;
Jarāmaraṇamokkhāya, yaṃ dhammaṃ abhisambudhaṃ;
Taṃ dhammaṃ sotumicchāmi, tuṇhī hohi punabbasū’’ti.
“Uttara đừng ồn
Punabba yên nhe
Mẹ muốn được lắng nghe
Pháp bậc Đạo Sư dạy
Đấng giác ngộ tối thượng
Thế Tôn dạy Niết Bàn
Giải thoát mọi trói buộc.
“Khi Phật thuyết niết bàn
Giải thoát mọi thằng thúc
Trong lòng mẹ khởi lên
Niềm ái kính với Pháp.
“Giữa cõi đời trầm luân
Chồng con là yêu dấu
Với mẹ, con đường đạo
Là thân thương hơn cả.
“Chồng con dù thân ái
Nhưng không giúp thoát khổ
Nghe được chân diệu pháp
Muôn loài thoát khổ đau.
“Đời chìm trong khổ đau
Với lão hoá, tử vong
Mẹ muốn nghe chánh pháp
Đấng Toàn Giác liễu ngộ
Giải thoát già và chết
Hỡi Punabbasu.
(Punabbasu):
‘‘Ammā na byāharissāmi, tuṇhībhūtāyamuttarā;
Dhammameva nisāmehi, saddhammassavanaṃ sukhaṃ;
Saddhammassa anaññāya, ammā dukkhaṃ carāmase.
‘‘Esa devamanussānaṃ, sammūḷhānaṃ pabhaṅkaro;
Buddho antimasārīro, dhammaṃ deseti cakkhumā’’ti.
“Thưa mẹ, con không ồn
Uttarā cũng yên
Mẹ cứ lắng nghe pháp
Nghe pháp thật hoan hỷ
Chính vì không hiểu pháp
Chúng ta sống khổ đau.
“Giữa nhân thiên lạc lõng
Phật là đuốc soi đường
Thế Tôn thân tối hậu
Bậc Pháp Nhãn giảng Pháp.
(Dạ xoa mẹ):
‘‘Sādhu kho paṇḍito nāma, putto jāto uresayo;
Putto me buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ suddhaṃ piyāyati.
‘‘Punabbasu sukhī hohi, ajjāhamhi samuggatā;
Diṭṭhāni ariyasaccāni, uttarāpi suṇātu me’’ti.
“Lành thay, con thông tuệ
Đứa con Mẹ ẳm bồng
Con thích Pháp thanh tịnh
Của Phật Đà vô thượng.
“Punabbasu hãy vui
Cuối cùng Mẹ đã chứng
Uttarā nghe nầy
Diệu đế đã liễu ngộ.
‘‘Tuṇhī uttarike hohi, tuṇhī hohi punabbasu;
Yāvāhaṃ buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ sossāmi satthuno.
“Này Uttarikā hãy yên lặng
Này Punabbhasu hãy yên lặng
Mẹ muốn lắng nghe pháp
Của Đạo Sư, Bậc Giác Ngộ tối thượng.
‘‘Nibbānaṃ bhagavā āha, sabbaganthappamocanaṃ;
Ativelā ca me hoti, asmiṃ dhamme piyāyanā.
“Khi Đức Thế Tôn giảng về Niết bàn
Giải thoát mọi trói buộc
Trong tâm mẹ khởi lên
Niềm ái kính sâu xa đối với Giáo Pháp.
‘‘Piyo loke sako putto, piyo loke sako pati;
Tato piyatarā mayhaṃ, assa dhammassa magganā.
“Ở đời con mình là dấu yêu
Ở đời chồng mình là chân ái
Với ta, con đường đạo
Thân thương hơn tất cả.
‘‘Na hi putto pati vāpi, piyo dukkhā pamocaye;
Yathā saddhammassavanaṃ, dukkhā moceti pāṇinaṃ.
“Cả hai chồng và con
Thân thương nhưng không giải thoát khổ đau
Như khi nghe được chân pháp
Giúp muôn loài thoát khổ.
‘‘Loke dukkhaparetasmiṃ, jarāmaraṇasaṃyute;
Jarāmaraṇamokkhāya, yaṃ dhammaṃ abhisambudhaṃ;
Taṃ dhammaṃ sotumicchāmi, tuṇhī hohi punabbasū’’ti.
“Cuộc đời chìm trong khổ đau
Trộn lẫn với già và chết
Mẹ muốn được nghe pháp của bậc Vô thượng Chánh Giác
Để giải thoát lão hoá tử vong, hỡi Panabbhasu.
‘‘Ammā na byāharissāmi, tuṇhībhūtāyamuttarā;
Dhammameva nisāmehi, saddhammassavanaṃ sukhaṃ;
Saddhammassa anaññāya, ammā dukkhaṃ carāmase.
‘‘Esa devamanussānaṃ, sammūḷhānaṃ pabhaṅkaro;
Buddho antimasārīro, dhammaṃ deseti cakkhumā’’ti.
“Thưa Mẹ, con không làm ồn
Uttarā cũng im lặng
Mẹ cứ lắng tâm nghe pháp
Nghe pháp thật hoan hỷ
Chính vì không hiểu pháp
Nên chúng ta đau khổ, thưa Mẹ.
“Phật là ngọn đuốc dẫn đường cho người lạc lối
Giữa thế giới nhân thiên
Thế Tôn với thân tối hậu
Bậc Pháp Nhãn giảng pháp.
‘‘Sādhu kho paṇḍito nāma, putto jāto uresayo;
Putto me buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ suddhaṃ piyāyati.
‘‘Punabbasu sukhī hohi, ajjāhamhi samuggatā;
Diṭṭhāni ariyasaccāni, uttarāpi suṇātu me’’ti.
“Tốt quá, con thân yêu thật thông minh
Đứa con ta ẳm bồng nuôi nấng
Con ta ưa thích pháp thanh tịnh
Của Bậc Giác Ngộ vô thượng.
“Punabbasu, hãy hoan hỷ
Hôm nay cuối cùng mẹ đã vượt lên trên
Uttarā cũng nghe mẹ nè
Diệu đế đã được liễu ngộ.
Theo Sớ giải nữ dạ xoa có hai đứa con. Con trai lớn tên Panabbasu. Con gái nhỏ tên Uttarā. Dạ xoa mẹ một tay dắt con trai, một tay bồng con gái. Khi đi tìm thực phẩm tình cờ đi ngang Kỳ Viên tịnh xát nghe Phật thuyết pháp về Niết Bàn. Nữ dạ xoa thấm thía pháp nhũ đứng yên. Đứa con gái đói nên kêu khóc.
Theo Sớ giải chữ paṇinaṃ - chúng sanh, loài hữu tình - ở đây dù số ít nhưng phải hiểu là tất cả chúng sanh theo số nhiều (Pānịnan ti yathā paṇinaṃ dukkhā moceti. Ke mocetī ti? Pānịne ti āharitvā vattabbaṃ).
Câu yaṃ dhammaṃ abhisambudhaṃ có cùng biến cách. Trên phương diện ngữ pháp thì có vấn đề. Bản Sớ Giái đưa ra giải pháp là hiểu chữ abhisambudhaṃ như là chủ cách (Yaṃ dhammaṃ abhisambuddhanti, yaṃ dhammaṃ bhagavā abhisambuddho). Bản dịch thoát là “pháp được liễu ngộ bởi Đấng Toàn giác”
Bản Sớ giải ghi là sau khi nghe Phật thuyết pháp, nữ dạ xoa và con trai Punabbasu chứng quả nhập lưu. Đứa con gái Uttarā không chứng thánh quả vì còn quá nhỏ.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
7. Punabbasusuttaṃ [Mūla]
241. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho punabbasumātā yakkhinī puttake evaṃ tosesi –
‘‘Tuṇhī uttarike hohi, tuṇhī hohi punabbasu;
Yāvāhaṃ buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ sossāmi satthuno.
‘‘Nibbānaṃ bhagavā āha, sabbaganthappamocanaṃ;
Ativelā ca me hoti, asmiṃ dhamme piyāyanā.
‘‘Piyo loke sako putto, piyo loke sako pati;
Tato piyatarā mayhaṃ, assa dhammassa magganā.
‘‘Na hi putto pati vāpi, piyo dukkhā pamocaye;
Yathā saddhammassavanaṃ, dukkhā moceti pāṇinaṃ.
‘‘Loke dukkhaparetasmiṃ, jarāmaraṇasaṃyute;
Jarāmaraṇamokkhāya, yaṃ dhammaṃ abhisambudhaṃ;
Taṃ dhammaṃ sotumicchāmi, tuṇhī hohi punabbasū’’ti.
‘‘Ammā na byāharissāmi, tuṇhībhūtāyamuttarā;
Dhammameva nisāmehi, saddhammassavanaṃ sukhaṃ;
Saddhammassa anaññāya, ammā dukkhaṃ carāmase.
‘‘Esa devamanussānaṃ, sammūḷhānaṃ pabhaṅkaro;
Buddho antimasārīro, dhammaṃ deseti cakkhumā’’ti.
‘‘Sādhu kho paṇḍito nāma, putto jāto uresayo;
Putto me buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ suddhaṃ piyāyati.
‘‘Punabbasu sukhī hohi, ajjāhamhi samuggatā;
Diṭṭhāni ariyasaccāni, uttarāpi suṇātu me’’ti.
7. Punabbasusuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
241. Sattame tena kho pana samayenāti katarasamayena? Sūriyassa atthaṅgamanasamayena. Tadā kira bhagavā pacchābhatte mahājanassa dhammaṃ desetvā mahājanaṃ uyyojetvā nhānakoṭṭhake nhatvā gandhakuṭipariveṇe paññattavarabuddhāsane puratthimalokadhātuṃ olokayamāno nisīdi. Athekacārikadvicārikādayo paṃsukūlikapiṇḍapātikabhikkhū attano attano vasanaṭṭhānehi nikkhamitvā āgamma dasabalaṃ vanditvā rattasāṇiyā parikkhipamānā viya nisīdiṃsu. Atha nesaṃ ajjhāsayaṃ viditvā satthā nibbānapaṭisaṃyuttaṃ dhammakathaṃ kathesi.
Evaṃ tosesīti sā kira dhītaraṃ aṅkenādāya puttaṃ aṅguliyā gahetvā jetavanapiṭṭhiyaṃ pākāraparikkhepasamīpe uccārapassāvakheḷasiṅghāṇikaṃ pariyesamānā anupubbena jetavanadvārakoṭṭhakaṃ sampattā. Bhagavato ca, ‘‘ānanda, pattaṃ āhara, cīvaraṃ āhara, vighāsādānaṃ dānaṃ dehī’’ti kathentassa saddo samantā dvādasahatthamattameva gaṇhāti. Dhammaṃ desentassa sacepi cakkavāḷapariyantaṃ katvā parisā nisīdati, yathā parisaṃ gacchati, bahiparisāya ekaṅgulimattampi na niggacchati, ‘‘mā akāraṇā madhurasaddo nassī’’ti. Tatrāyaṃ yakkhinī bahiparisāya ṭhitā saddaṃ na suṇāti, dvārakoṭṭhake ṭhitāya panassā mahatiyā buddhavīthiyā abhimukhe ṭhitā gandhakuṭi paññāyi. Sā nivāte dīpasikhā viya buddhagāravena hatthakukkuccādirahitaṃ niccalaṃ parisaṃ disvā – ‘‘nūna mettha kiñci bhājanīyabhaṇḍaṃ bhavissati, yato ahaṃ sappitelamadhuphāṇitādīsu kiñcideva pattato vā hatthato vā paggharantaṃ bhūmiyaṃ vā pana patitaṃ labhissāmī’’ti antovihāraṃ pāvisi. Dvārakoṭṭhake avaruddhakānaṃ nivāraṇatthāya ṭhitā ārakkhadevatā yakkhiniyā upanissayaṃ disvā na nivāresi. Tassā saha parisāya ekībhāvagamanena madhurassaro chaviādīni chinditvā aṭṭhimiñjaṃ āhacca aṭṭhāsi. Taṃ dhammassavanatthāya niccalaṃ ṭhitaṃ purimanayeneva puttakā codayiṃsu. Sā ‘‘dhammassavanassa me antarāyaṃ karontī’’ti puttake tuṇhī uttarike hohīti evaṃ tosesi.
Tattha yāvāti yāva dhammaṃ suṇāmi, tāva tuṇhī hohīti attho. Sabbaganthappamocananti nibbānaṃ āgamma sabbe ganthā pamuccanti, tasmā taṃ sabbaganthappamocananti vuccati. Ativelāti velātikkantā pamāṇātikkantā. Piyāyanāti magganā patthanā. Tato piyataranti yā ayaṃ assa dhammassa magganā patthanā, idaṃ mayhaṃ tato piyataranti attho. Piyatarāti vā pāṭho. Pāṇinanti yathā pāṇīnaṃ dukkhā moceti. Ke mocetīti? Pāṇineti āharitvā vattabbaṃ. Yaṃ dhammaṃ abhisambuddhanti, yaṃ dhammaṃ bhagavā abhisambuddho. Tuṇhībhūtāyamuttarāti na kevalaṃ ahameva, ayaṃ me bhaginī uttarāpi tuṇhībhūtāti vadati. Saddhammassa anaññāyāti, amma, mayaṃ pubbepi imaṃ saddhammameva ajānitvā idāni idaṃ khuppipāsādidukkhaṃ anubhavantā dukkhaṃ carāma viharāma.
Cakkhumāti pañcahi cakkhūhi cakkhumā. Dhammaṃ desentoyeva bhagavā parisaṃ sallakkhayamāno tassā yakkhiniyā ceva yakkhadārakassa ca sotāpattiphalassa upanissayaṃ disvā desanaṃ vinivaṭṭetvā catusaccakathaṃ dīpeti, taṃ sutvā tasmiṃyeva dese ṭhitā yakkhinī saddhiṃ puttena sotāpattiphale patiṭṭhitā. Dhītuyāpi panassā upanissayo atthi, atidaharattā pana desanaṃ sampaṭicchituṃ nāsakkhi.
Idāni sā yakkhinī puttassa anumodanaṃ karontī sādhu kho paṇḍito nāmātiādimāha. Ajjāhamhi samuggatāti ahamhi ajja vaṭṭato uggatā samuggatā sāsane vā uggatā samuggatā, tvampi sukhī hohīti. Diṭṭhānīti mayā ca tayā ca diṭṭhāni. Uttarāpi suṇātu meti, ‘‘amhākaṃ catusaccapaṭivedhabhāvaṃ, dhītā me uttarāpi, suṇātū’’ti vadati. Saha saccapaṭivedheneva sāpi sūcilomo viya sabbaṃ setakaṇḍukacchuādibhāvaṃ pahāya dibbasampattiṃ paṭilabhati saddhiṃ puttena. Dhītā panassā yathā nāma loke mātāpitūhi issariye laddhe puttānampi taṃ hoti, evaṃ mātu-ānubhāveneva sampattiṃ labhi. Tato paṭṭhāya ca sā saddhiṃ puttakehi gandhakuṭisamīparukkheyeva nivāsarukkhaṃ labhitvā sāyaṃ pātaṃ buddhadassanaṃ labhamānā dhammaṃ suṇamānā dīgharattaṃ tattheva vasi. Sattamaṃ.