Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TÂM VÔ SỞ TRỤ GÓT HÀI VÔ TÍCH - Kinh Vakkali (Vakkalisuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TÂM VÔ SỞ TRỤ GÓT HÀI VÔ TÍCH - Kinh Vakkali (Vakkalisuttaṃ)

Thứ tư, 17/07/2024, 08:06 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 17.7.2024

TÂM VÔ SỞ TRỤ GÓT HÀI VÔ TÍCH

Kinh Vakkali (Vakkalisuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm Trưởng Lão (S,iii,87)

Ngay cả người đi tu bỏ tất cả cũng vẫn có chỗ vướng mắc của tâm thức. Trong cảnh giới mênh mông vô cùng, rất hiếm người có thể đến đi tự tại không chỗ buộc ràng. Tôn giả Vakkali một trí thức lào thông Tam Phệ Đà và sau này có niềm tịnh tín cao vợi ở Phật, thế mà không thể trấn an cõi lòng, cho tới khi xả bỏ mạng sống bất chợt cõi lòng nhẹ tênh, vì chính sự không tìm gì cả là cái thật sự đáng tìm. Ở cuối hành trình nhìn lại thì tất cả chỉ là “phương trời viễn mộng”.

Kinh văn

Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

Tena kho pana samayena āyasmā vakkali kumbhakāranivesane viharati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno.

Một thuở, Đức Thế Tôn ngự ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ khu vực cho sóc ăn.

Lúc ấy, Tôn giả Vakkali trú tại nhà một thợ gốm, đang bị bệnh nặng, đau đớn.

Atha kho āyasmā vakkali upaṭṭhāke āmantesi: “etha tumhe, āvuso, yena bhagavā tenupasaṅkamatha; upasaṅkamitvā mama vacanena bhagavato pāde sirasā vandatha: ‘vakkali, bhante, bhikkhu ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno, so bhagavato pāde sirasā vandatī’ti. Evañca vadetha: ‘sādhu kira, bhante, bhagavā yena vakkali bhikkhu tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’”ti.

Rồi Tôn giả Vakkali gọi những người thị giả:

—Hãy đi Chư Hiền giả! Hãy đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, thay mặt tôi cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Vakkali bị bệnh nặng, đau đớn. (Vakkali) cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ‘Thật tốt lành thay, Đức Thế Tôn vì lòng lân mẫn đi đến tỳ khưu Vakkali.’”

“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato vakkalissa paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ: “vakkali, bhante, bhikkhu ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno, so bhagavato pāde sirasā vandati; evañca pana vadeti: ‘sādhu kira, bhante, bhagavā yena vakkali bhikkhu tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’”ti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.

—Thưa vâng, Hiền giả.

Chư tỳ khưu ấy trả lời Tôn giả Vakkali rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên và bạch rằng:

—“Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Vakkali bị bệnh nặng, đau đớn. (Vakkali) cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ‘Thật tốt lành thay, Đức Thế Tôn vì lòng lân mẫn đi đến tỳ khưu Vakkali.’”

Thế Tôn nhận lời bằng sự im lặng.

Atha kho bhagavā nivāsetvā pattacīvaramādāya yenāyasmā vakkali tenupasaṅkami. Addasā kho āyasmā vakkali bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna mañcake samadhosi.

Atha kho bhagavā āyasmantaṃ vakkaliṃ etadavoca: “alaṃ, vakkali, mā tvaṃ mañcake samadhosi. Santimāni āsanāni paññattāni; tatthāhaṃ nisīdissāmī”ti.

Rồi Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát và y (kép), đi đến Tỷ-kheo Vakkali.

Tôn giả Vakkali trên giường thấy Thế Tôn từ xa đi đến liền ráng gượng ngồi dậy.

Thế Tôn nói với Tôn giả Vakkali:

—Thôi Vakkali, Thầy đừng cố gượng ngồi dậy. Có chỗ ngồi đã soạn sẵn, Ta sẽ ngồi trên chỗ ngồi ấy.

Nisīdi bhagavā paññatte āsane. Nisajja kho bhagavā āyasmantaṃ vakkaliṃ etadavoca: “kacci te, vakkali, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti, no abhikkamanti; paṭikkamosānaṃ paññāyati, no abhikkamo”ti?

“Na me, bhante, khamanīyaṃ, na yāpanīyaṃ; bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti, no paṭikkamanti; abhikkamosānaṃ paññāyati, no paṭikkamo”ti.

Rồi Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.

Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Vakkali:

—Thầy có kham nhẫn được không? Thầy có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ tổn giảm, không tăng trưởng? Có phải có những dấu hiệu tổn giảm, không phải tăng trưởng?

—Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn! Con không thể chịu đựng! Khổ thọ kịch liệt tăng trưởng nơi con, không có tổn giảm. Có những dấu hiệu tăng trưởng, không có tổn giảm.

“Kacci te, vakkali, na kiñci kukkuccaṃ, na koci vippaṭisāro”ti?

“Taggha me, bhante, anappakaṃ kukkuccaṃ, anappako vippaṭisāro”ti.

—Này Vakkali, Thầy có gì phải hối hận và tiếc nuối không?

—Bạch Thế Tôn, thật sự con có nhiều hối hận và tiếc nuối!

“Kacci pana taṃ, vakkali, attā sīlato na upavadatī”ti?

“Na kho maṃ, bhante, attā sīlato upavadatī”ti.

—Này Vakkali, phải chăng Thầy tự trách mình về giới luật?

—Bạch Thế Tôn, con không có gì tự trách mình về giới luật.

“No ce kira taṃ, vakkali, attā sīlato upavadati; atha kiñca te kukkuccaṃ ko ca vippaṭisāro”ti?

“Cirapaṭikāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkamitukāmo, natthi ca me kāyasmiṃ tāvatikā balamattā, yāvatāhaṃ bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkameyyan”ti.

—Này Vakkali, nếu Thầy không có gì tự trách mình về giới luật, vậy Thầy hối hận và tiếc nuối điều gì?

—Bạch Đức Thế Tôn, đã từ lâu con muốn đến để được diện kiến Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến gặp Ngài.

“Alaṃ, vakkali, kiṃ te iminā pūtikāyena diṭṭhena? Yo kho, vakkali, dhammaṃ passati so maṃ passati; yo maṃ passati so dhammaṃ passati. Dhammañhi, vakkali, passanto maṃ passati; maṃ passanto dhammaṃ passati.

—Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đối với người thấy Pháp, là thấy Ta. Đối với người thấy Ta, là thấy Pháp.

Taṃ kiṃ maññasi, vakkali, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Aniccaṃ, bhante”.

“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Dukkhaṃ, bhante”.

—Này Vakkali, Thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

—Là vô thường, bạch Thế Tôn.

—Cái gì vô thường, là khổ hay là lạc?

—Là khổ, bạch Thế Tôn.

“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“No hetaṃ, bhante”.

—Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi xem cái ấy là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”?

—Thưa không, bạch Thế Tôn.

“Vedanā … saññā … saṅkhārā … viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Aniccaṃ, bhante” …pe… eso me attāti? “No hetaṃ, bhante”.

—Thọ … Tưởng … Các hành … Thức là thường hay vô thường?

—Là vô thường, bạch Thế Tôn.

—Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

—Là khổ, bạch Thế Tôn.

—Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi xem cái ấy là: “Cái này là của ta. Cái này là ta. Cái này là tự ngã của ta”?

—Thưa không, bạch Thế Tôn.

“Tasmātiha …pe… evaṃ passaṃ …pe… nāparaṃ itthattāyāti pajānātī”ti.

—Do vậy, ở đây … thấy vậy … ” … không còn trở lui trạng thái này nữa”. Vị ấy biết rõ như vậy.

Atha kho bhagavā āyasmantaṃ vakkaliṃ iminā ovādena ovaditvā uṭṭhāyāsanā yena gijjhakūṭo pabbato tena pakkāmi.

Rồi Thế Tôn, sau khi huấn thị cho Tôn giả Vakkali với những lời dạy này, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến núi Gijjhakuta (Linh Thứu).

Atha kho āyasmā vakkali acirapakkantassa bhagavato upaṭṭhāke āmantesi: “etha maṃ, āvuso, mañcakaṃ āropetvā yena isigilipassaṃ kāḷasilā tenupasaṅkamatha. Kathañhi nāma mādiso antaraghare kālaṃ kattabbaṃ maññeyyā”ti?

“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato vakkalissa paṭissutvā āyasmantaṃ vakkaliṃ mañcakaṃ āropetvā yena isigilipassaṃ kāḷasilā tenupasaṅkamiṃsu.

Sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, Tôn giả Vakkali, liền gọi các thị giả:

—Này chư Hiền, hãy đến đây và khiêng cái giường ta đến tảng Hắc Thạch (kāḷasilā), tại triền núi Isigili (Tiên nhân lãnh). Làm sao người như ta, lại nghĩ đến mệnh chung giữa những căn nhà?

—Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy trả lời Tôn giả Vakkali, rồi khiêng chiếc giường với Tôn giả Vakkali đi đến tảng đá đen, tại sườn núi Isigili.

Atha kho bhagavā tañca rattiṃ tañca divāvasesaṃ gijjhakūṭe pabbate vihāsi.

Atha kho dve devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ gijjhakūṭaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu …pe… ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.

Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavantaṃ etadavoca: “vakkali, bhante, bhikkhu vimokkhāya cetetī”ti.

Aparā devatā bhagavantaṃ etadavoca: “so hi nūna, bhante, suvimutto vimuccissatī”ti.

Idamavocuṃ tā devatāyo. Idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyiṃsu.

Thế Tôn, đêm ấy và ngày còn lại, trú tại núi Gijjhakuta.

Rồi hai vị Thiên, trong khi đêm đã gần tàn, với ngoại hình mỹ diệu, chói sáng toàn vùng núi Gijjhakuta, đi đến Thế Tôn và đứng một bên.

Một vị Thiên bạch Thế Tôn:

—Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Vakkali đang có ý nghĩ muốn giải thoát.

Vị Thiên khác bạch Thế Tôn:

—Vị ấy muốn giải thoát, chắc chắn được khéo giải thoát.

Chư Thiên ấy sau khi nói vậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, biến mất tại chỗ.

Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi:

“etha tumhe, bhikkhave, yena vakkali bhikkhu tenupasaṅkamatha; upasaṅkamitvā vakkaliṃ bhikkhuṃ evaṃ vadetha:

‘Suṇāvuso tvaṃ, vakkali, bhagavato vacanaṃ dvinnañca devatānaṃ.

Imaṃ, āvuso, rattiṃ dve devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ gijjhakūṭaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.

Ekamantaṃ ṭhitā kho, āvuso, ekā devatā bhagavantaṃ etadavoca—vakkali, bhante, bhikkhu vimokkhāya cetetīti.

Aparā devatā bhagavantaṃ etadavoca—so hi nūna, bhante, suvimutto vimuccissatīti.

Bhagavā ca taṃ, āvuso vakkali, evamāha—mā bhāyi, vakkali; mā bhāyi, vakkali. Apāpakaṃ te maraṇaṃ bhavissati, apāpikā kālakiriyā’”ti.

Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã qua, liền gọi chư tỳ khưu:

—Này chư Tỳ khưu hãy đi. Hãy đi đến tỳ khưu Vakkali. Sau khi đến, nói với tỳ khưu Vakkali như sau: “Này Hiền giả Vakkali, hãy nghe lời nói của hai vị Thiên nói với Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Vakkali đang có ý nghĩ muốn giải thoát”. Vị Thiên khác bạch Thế Tôn: “Vị ấy muốn giải thoát, chắc chắn được khéo giải thoát”.

Và Hiền giả Vakkali, Thế Tôn nói với Hiền giả như sau: “Này Vakkali, đừng sợ! Này Vakkali, chớ có sợ! Cái chết của Ông sẽ không phải là bất hạnh, sự mệnh chung không phải bất hạnh!”

“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paṭissutvā yenāyasmā vakkali tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ vakkaliṃ etadavocuṃ:

“suṇāvuso vakkali, bhagavato vacanaṃ dvinnañca devatānan”ti.

—Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Chư Tỳ khưu ấy vâng theo lời Thế Tôn đi đến Tôn giả Vakkali; sau khi đến, nói với Tôn giả Vakkali:

—Này Hiền giả Vakkali, hãy nghe lời nói của Thế Tôn và hai vị Thiên.

Atha kho āyasmā vakkali upaṭṭhāke āmantesi: “etha maṃ, āvuso, mañcakā oropetha. Kathañhi nāma mādiso ucce āsane nisīditvā tassa bhagavato sāsanaṃ sotabbaṃ maññeyyā”ti.

Rồi Tôn giả Vakkali gọi các vị thị giả:

—Hãy đến, này chư Hiền! Hãy nhấc tôi ra khỏi giường. Làm sao một người như tôi, có thể nghĩ ngồi trên chỗ ngồi cao để nghe Thế Tôn giảng dạy.

“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato vakkalissa paṭissutvā āyasmantaṃ vakkaliṃ mañcakā oropesuṃ. “Imaṃ, āvuso, rattiṃ dve devatāyo abhikkantāya rattiyā …pe… ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, āvuso, ekā devatā bhagavantaṃ etadavoca: ‘vakkali, bhante, bhikkhu vimokkhāya cetetī’ti. Aparā devatā bhagavantaṃ etadavoca: ‘so hi nūna, bhante, suvimutto vimuccissatī’ti. Bhagavā ca taṃ, āvuso vakkali, evamāha: ‘mā bhāyi, vakkali; mā bhāyi, vakkali. Apāpakaṃ te maraṇaṃ bhavissati, apāpikā kālakiriyā’”ti.

—Thưa vâng, này Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Vakkali, nhấc Tôn giả Vakkali ra khỏi giường.

—Này Hiền giả, “Đêm qua có hai vị Thiên, trong khi đêm đã gần tàn, với ngoại hình mỹ diệu, chói sáng toàn vùng núi Gijjhakuta, đi đến Thế Tôn và đứng một bên. Một vị Thiên bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Vakkali đang có ý nghĩ muốn giải thoát”. Vị Thiên khác bạch Thế Tôn: “Vị ấy muốn giải thoát, chắc chắn được khéo giải thoát”.

Và Hiền giả Vakkali, Thế Tôn nói với Hiền giả như sau: “Này Vakkali, đừng sợ! Này Vakkali, chớ có sợ! Cái chết của Ông sẽ không phải là bất hạnh, sự mệnh chung không phải bất hạnh!’

“Tena hāvuso, mama vacanena bhagavato pāde sirasā vandatha: ‘vakkali, bhante, bhikkhu ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. So bhagavato pāde sirasā vandatī’ti. Evañca vadetha: ‘rūpaṃ aniccaṃ. Tāhaṃ, bhante, na kaṅkhāmi. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti na vicikicchāmi. Yadaniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, natthi me tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vāti na vicikicchāmi.

Vedanā aniccā. Tāhaṃ, bhante, na kaṅkhāmi. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti na vicikicchāmi. Yadaniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, natthi me tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vāti na vicikicchāmi.

Saññā …

saṅkhārā aniccā. Tāhaṃ, bhante, na kaṅkhāmi. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti na vicikicchāmi. Yadaniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, natthi me tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vāti na vicikicchāmi.

Viññāṇaṃ aniccaṃ. Tāhaṃ, bhante, na kaṅkhāmi. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti na vicikicchāmi. Yadaniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, natthi me tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vāti na vicikicchāmī’”ti.

—Vậy này chư Hiền, hãy thay tôi cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: “Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Vakkali bị bệnh nặng, đau đớn! Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và nói như sau: ‘Sắc là vô thường, bạch Thế Tôn. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này, bạch Thế Tôn! Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Thọ là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Tưởng là vô thường … Các hành là vô thường … Thức là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì về vấn đề này.’”

“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato vakkalissa paṭissutvā pakkamiṃsu. Atha kho āyasmā vakkali acirapakkantesu tesu bhikkhūsu satthaṃ āharesi.

—Thưa vâng, này Hiền giả.

Các tỳ khưu ấy trả lời Tôn giả Vakkali rồi ra đi.

Khi các tỳ khưu ấy đi không bao Tôn giả Vakkali liền tự vẫn.

Atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ: “vakkali, bhante, bhikkhu ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno; so bhagavato pāde sirasā vandati; evañca vadeti: ‘rūpaṃ aniccaṃ. Tāhaṃ, bhante, na kaṅkhāmi. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti na vicikicchāmi. Yadaniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, natthi me tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vāti na vicikicchāmi. Vedanā … saññā … saṅkhārā … viññāṇaṃ aniccaṃ. Tāhaṃ, bhante, na kaṅkhāmi. Yadaniccaṃ taṃ dukkhanti na vicikicchāmi. Yadaniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, natthi me tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vāti na vicikicchāmī’”ti.

Rồi chư tỳ khưu ấy đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, liền ngồi xuống một bên và bạch Thế Tôn:

—Bạch Thế Tôn, Tỳ khưu Vakkali bị bệnh nặng, đau đớn! Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và nói như sau: ‘Sắc là vô thường, bạch Thế Tôn. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này, bạch Thế Tôn! Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Thọ là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Tưởng là vô thường … Các hành là vô thường … Thức là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì về vấn đề này.’”

Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi: “āyāma, bhikkhave, yena isigilipassaṃ kāḷasilā tenupasaṅkamissāma; yattha vakkalinā kulaputtena satthamāharitan”ti.

“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

Rồi Thế Tôn gọi các Tỳ khưu:

—Này chư Tỳ khưu, chúng ta hãy đi đến Isigili, chỗ tảng Hắc Thạch. Ở đấy, Thiện gia nam tử đã tự vẫn.

—Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Chư tỳ khưu trả lời Đức Thế Tôn.

Atha kho bhagavā sambahulehi bhikkhūhi saddhiṃ yena isigilipassaṃ kāḷasilā tenupasaṅkami. Addasā kho bhagavā āyasmantaṃ vakkaliṃ dūratova mañcake vivattakkhandhaṃ semānaṃ.

Rồi Đức Thế Tôn cùng với số đông tỳ khưu đi đến Isigili, chỗ tảng Hắc Thạch.

Từ xa Đức Thế Tôn thấy Tôn giả Vakkali nằm trên giường, với vai co quắp lại.

Tena kho pana samayena dhūmāyitattaṃ timirāyitattaṃ gacchateva purimaṃ disaṃ, gacchati pacchimaṃ disaṃ, gacchati uttaraṃ disaṃ, gacchati dakkhiṇaṃ disaṃ, gacchati uddhaṃ disaṃ, gacchati adho disaṃ, gacchati anudisaṃ.

Lúc bấy giờ, một luồng khói đen, một vầng ám khí bay lượn về phía Ðông, đi về phía Tây, đi về phía Bắc, đi về phía Nam, đi về phía trên, đi về phía dưới, đi về phía bốn góc.

Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi: “passatha no tumhe, bhikkhave, etaṃ dhūmāyitattaṃ timirāyitattaṃ gacchateva purimaṃ disaṃ …pe… gacchati anudisan”ti.

“Evaṃ, bhante”.

Rồi Thế Tôn bảo chư tỳ khưu:

—Này chư Tỳ khưu, các Thầy có thấy một luồng khói đen, một vầng ám khí bay lượn về phía Ðông, đi về phía Tây, đi về phía Bắc, đi về phía Nam, đi về phía trên, đi về phía dưới, đi về phía bốn góc?

—Thưa có, bạch Đức Thế Tôn.

“Eso kho, bhikkhave, māro pāpimā vakkalissa kulaputtassa viññāṇaṃ samanvesati: ‘kattha vakkalissa kulaputtassa viññāṇaṃ patiṭṭhitan’ti? Appatiṭṭhitena ca, bhikkhave, viññāṇena vakkali kulaputto parinibbuto”ti.

—Này chư Tỳ khưu, đó là Ác ma đang đi tìm thức của Thiện nam tử Vakkali với thắc mắc: “thức của Thiện nam tử Vakkali an trú tại chỗ nào?” Nhưng này chư Tỳ khưu, với thức không an trú tại một chỗ nào, Thiện nam tử Vakkali đã chứng cứu cánh niết bàn!

 

Chú Thích

Một điều rất hiếm hoi là câu chuyện Tôn giả Vakkali trong bài kinh này, rất khác với câu chuyện được ghi trong Sớ giải Kinh Pháp Cú. Những gì được ghi ở đây thì Tôn giả Vakkali là một bậc thạc đức không ủy mị như thường được kể.

Tôn giả Vakkaki nguyên là một bà la môn tinh thông Tam Phệ Đà tại Sāvatthi, sau này xuất gia theo Đức Phật được xác chứng là bậc đệ nhất về niềm tin (etadaggam saddhādhimu tānam). Sau mùa an cư, Tôn giả rời Sāvatthi đi đến Rājagaha với mục đích diện kiến Đức Phật, nhưng giữa đường lâm trọng bệnh được chư Tỳ khưu đưa vào một căn nhà của thợ gốm tạm trú tịnh dưỡng.

Phật ngôn “Yo kho, vakkali, dhammaṃ passati so maṃ passati; yo maṃ passati so dhammaṃ passati - Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp” là Phật ngôn quan trọng, mà theo Sớ Giải cũng như chánh tạng Trường Bộ nói về Pháp Thân – Dhammakāya (tathāgatassa h’ etam Vāsettha adhivacanam dhammakāyo iti pi …). Kinh Vāsettha DN I 84,23-24. Thuật ngữ này, một cách thú vị, ít được sử dụng trong Phật giáo Nam Truyền, nhưng lại rất phổ thông trong Phật giáo Bắc Truyền. Điều này có lẽ do giáo lý “tam thân -tikāya” là nền tảng tín ngưỡng của Phật giáo Đại thừa.

Theo Sớ giải, thì sau khi Tôn giả Vakkali được nghe Phật huấn thị, sau đó đã nhờ chư tỳ khưu chuyển lời về suy tư của mình, thì Tôn giả lầm tưởng bản thân đã đắc chứng quả a la hán. Cho tới khi dùng con dao cạo tóc tự vẫn, cơn đau khốc liệt khởi lên mới nhận ra mình vẫn là phàm phu. Nhưng chính lúc ấy lại khai triển tuệ quán minh sát và chứng quả a la hán. Trường hợp này cũng là trường hợp của Tôn giả Godhika - vị này cũng tự vẫn, một cách trùng hợp kỳ lạ, tại Hắc Thạch (Kāḷasilā).

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Sớ Giải Vakkalisuttaṃ

87. pañcame kumbhakāranivesaneti kumbhakārasālāyaṃ. thero kira vutthavasso pavāretvā bhagavantaṃ dassanāya āgacchati. tassa nagaramajjhe mahāābādho uppajji, pādā na vahanti. atha naṃ mañcakasivikāya kumbhakārasālaṃ āhariṃsu. sā ca sālā tesaṃ kammasālā, na nivesanasālā. taṃ sandhāya vuttaṃ “kumbhakāranivesane viharatī”ti. bāḷhagilānoti adhimattagilāno. samadhosīti samantato adhosi, calanākārena apacitiṃ dassesi. vattaṃ kiretaṃ bāḷhagilānenapi buḍḍhataraṃ disvā uṭṭhānākārena apaciti dassetabbā. tena pana “mā cali mā calī”ti vattabbo. santimāni āsanānīti buddhakālasmiñhi ekassapi bhikkhuno vasanaṭṭhāne “sace satthā āgacchissati, idha nisīdissatī”ti āsanaṃ paññattameva hoti antamaso phalakamattampi paṇṇasanthāramattampi. khamanīyaṃ yāpanīyanti kacci dukkhaṃ khamituṃ iriyāpathaṃ vā yāpetuṃ sakkāti pucchati. paṭikkamantīti nivattanti. abhikkamantīti adhigacchanti. paṭikkamosānanti paṭikkamo etāsaṃ. sīlato na upavadatīti sīlaṃ ārabbha sīlabhāvena na upavadati. cirapaṭikāhanti cirapaṭiko ahaṃ, cirato paṭṭhāya ahanti attho. pūtikāyenāti attano suvaṇṇavaṇṇampi kāyaṃ bhagavā dhuvapaggharaṇaṭṭhena evamāha. yo kho, vakkali, dhammanti idha bhagavā “dhammakāyo kho, mahārāja, tathāgato”ti vuttaṃ dhammakāyataṃ dasseti. navavidho hi lokuttaradhammo tathāgatassa kāyo nāma.

♦ idāni therassa tiparivaṭṭadhammadesanaṃ ārabhanto taṃ kiṃ maññasītiādimāha. kāḷasilāti kāḷasilāvihāro. vimokkhāyāti maggavimokkhatthāya. suvimutto vimuccissatīti arahattaphalavimuttiyā vimutto hutvā vimuccissati. tā kira devatā “yena nīhārena iminā vipassanā āraddhā, anantarāyena arahattaṃ pāpuṇissatī”ti ñatvā evamāhaṃsu. apāpakanti alāmakaṃ. satthaṃ āharesīti thero kira adhimāniko ahosi. so samādhivipassanāhi vikkhambhitānaṃ kilesānaṃ samudācāraṃ apassanto “khīṇāsavomhī”ti saññī hutvā “kiṃ me iminā dukkhena jīvitena? satthaṃ āharitvā marissāmī”ti tikhiṇena satthena kaṇṭhanāḷaṃ chindi. athassa dukkhā vedanā uppajji. so tasmiṃ khaṇe attano puthujjanabhāvaṃ ñatvā avissaṭṭhakammaṭṭhānattā sīghaṃ mūlakammaṭṭhānaṃ ādāya sammasanto arahattaṃ pāpuṇitvāva kālamakāsi. paccavekkhaṇā panassa ca kathaṃ ahosīti? khīṇāsavassa ekūnavīsati paccavekkhaṇā na sabbāva avassaṃ laddhabbā, tikhiṇenāpi pana asinā sīse chijjante ekaṃ dve ñāṇāni avassaṃ uppajjanti.

♦ vivattakkhandhanti parivattakkhandhaṃ. semānanti sayamānaṃ. thero kira uttānako nipanno satthaṃ āhari. tassa sarīraṃ yathāṭhitameva ahosi. sīsaṃ pana dakkhiṇapassena parivattitvā aṭṭhāsi. ariyasāvakā hi yebhuyyena dakkhiṇapasseneva kālaṃ karonti. tenassa sarīraṃ yathāṭhitaṃyeva ahosi. sīsaṃ pana dakkhiṇapassena parivattitvā ṭhitaṃ. taṃ sandhāya vivattakkhandho nāma jātotipi vadanti. dhūmāyitattanti dhūmāyanabhāvaṃ. timirāyitattanti timirāyanabhāvaṃ. dhūmavalāhakaṃ viya timiravalāhakaṃ viya cāti attho. pañcamaṃ.

Ý kiến bạn đọc