Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - Tâm Ma Không Nhìn Sâu Xa Như Tâm Phật - Kinh Bình Bát (Pattasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - Tâm Ma Không Nhìn Sâu Xa Như Tâm Phật - Kinh Bình Bát (Pattasuttaṃ)

Thứ bảy, 12/03/2022, 13:07 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 12.3.2022


Tâm Ma Không Nhìn Sâu Xa Như Tâm Phật

Kinh Bình Bát (Pattasuttaṃ)

(CHƯƠNG IV. TƯƠNG ƯNG ÁC MA, PHẨM THỨ HAI) (S.i, 112)

Những cái gọi là ta hay của ta theo thường tình là cách nhìn thi thiết trong cuộc sống. Bản chất thật của vạn hữu luôn dịch chuyển theo tự tánh. Nói theo bản thể thì ngay cả thân tâm của mỗi chúng sanh vốn không có một trạng thái hằng hữu thì lấy đâu để nói đó là ta hay của ta. Đức Thế Tôn đang giảng dạy về bản chất của năm thủ uẩn. Ma hoá hiện con bò để khiến chư tỳ kheo hoảng hốt vì sợ những bình bát “của mình” bị bò dẫm đạp. Nhìn bên ngoài là sự cân phân giữa Phật trí và Ma tâm. Thực tế thì người tu luôn phải điều chỉnh giữa cái nhìn thường tình và cái nhìn theo thực tướng.


Tâm Ma Không Nhìn Sâu Xa Như Tâm Phật - Kinh Bình Bát (Pattasuttaṃ)

Sāvatthinidānaṃ.

Tena kho pana samayena bhagavā pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā sabbaṃ cetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti.

Tại Sāvatthi.

Lúc bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo. Ngài khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với đề tài năm thủ uẩn. Chư tỳ kheo lắng nghe, chăm chú, suy nghiệm.

Atha kho mārassa pāpimato etadahosi – ‘‘ayaṃ kho samaṇo gotamo pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yaṃnūnāhaṃ yena samaṇo gotamo tenupasaṅkameyyaṃ vicakkhukammāyā’’ti.

Rồi Ác ma suy nghĩ: "Sa-môn Gotama này đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo. Ngài khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với đề tài năm thủ uẩn. Chư tỳ kheo lắng nghe, chăm chú, suy nghiệm. Ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và làm mờ loạn các Tỷ-kheo ấy".

Tena kho pana samayena sambahulā pattā abbhokāse nikkhittā honti.Atha kho māro pāpimā balībaddavaṇṇaṃ abhinimminitvā yena te pattā tenupasaṅkami.

Lúc bấy giờ có nhiều bình bát phơi ngoài trời. Ác ma hoá hiện thành con bò đực đi tới chỗ để các bình bát.

Atha kho aññataro bhikkhu aññataraṃ bhikkhuṃ etadavoca

‘‘bhikkhu, bhikkhu, eso balībaddo patte bhindeyyā’’ti.

Một tỳ kheo nói với một tỳ kheo khác rằng: Tỳ kheo, tỳ kheo, con bò đực đó sẽ làm vỡ các bình bát.

Evaṃ vutte bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca

‘‘na so, bhikkhu, balībaddo. Māro eso pāpimā tumhākaṃ vicakkhukammāya āgato’’ti.

Nghe vậy Đức Thế Tôn nói với tỳ kheo ấy:

-- Này Tỷ-kheo, đó không phải con bò đực. Nó chính là Ác ma muốn đến làm mờ loạn các thầy.

Atha kho bhagavā ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Thế Tôn nhận diện: "Ðây là Ác ma", Ngài nói lên kệ ngôn nầy với Ác ma:

‘‘Rūpaṃ vedayitaṃ saññā,

viññāṇaṃ yañca saṅkhataṃ;

Nesohamasmi netaṃ me,

evaṃ tattha virajjati.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,

“Tôi chẳng là cái nầy,

Cái nầy chẳng của tôi”

Nên vị ấy ly tham.

‘‘Evaṃ virattaṃ khemattaṃ,

sabbasaṃyojanātigaṃ;

Anvesaṃ sabbaṭṭhānesu,

mārasenāpi nājjhagā’’ti.

Ma và ma quân tìm,

Khắp mọi nơi không thấy,

Bậc ly tham, an tịnh,

Vượt thoát mọi kiết sử.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ bhagavā, jānāti maṃ sugato’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta" nên buồn và thất vọng liền biến mất tại chỗ ấy.


Rūpaṃ vedayitaṃ saññā Sắc, thọ, tưởng
viññāṇaṃ yañca saṅkhataṃ thức và  hành
Nesohamasmi netaṃ me Không phải là tôi, không phải của tôi

evaṃ tattha virajjati

Do vậy vị ấy ly tham từ đó

Evaṃ virattaṃ khemattaṃ sabbasaṃyojanātigaṃ

Bậc ly tham, an tịnh, vượt thoát khỏi tất cả trói buộc

Anvesaṃ sabbaṭṭhānesu mārasenāpi nājjhagā’’ti

Ma và ma quân tìm vị ấy mọi nơi nhưng không tìm thấy được.

Theo Sớ giải chữ sabbaṭṭhānesu - khắp tất cả phương xứ - chỉ cho tam giới hay tất cả cảnh giới sanh tử.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

6. Pattasuttaṃ [Mūla]

152. Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena bhagavā pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti [samādāpeti (?)] samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā [aṭṭhikatvā (sī. syā. kaṃ. pī.)] manasi katvā sabbacetasā [sabbacetaso (sī. syā. kaṃ. pī.), sabbaṃ cetasā (ka.)] samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti.

Atha kho mārassa pāpimato etadahosi – ‘‘ayaṃ kho samaṇo gotamo pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yaṃnūnāhaṃ yena samaṇo gotamo tenupasaṅkameyyaṃ vicakkhukammāyā’’ti.

Tena kho pana samayena sambahulā pattā abbhokāse nikkhittā honti. Atha kho māro pāpimā balībaddavaṇṇaṃ abhinimminitvā yena te pattā tenupasaṅkami. Atha kho aññataro bhikkhu aññataraṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘bhikkhu, bhikkhu, eso balībaddo patte bhindeyyā’’ti. Evaṃ vutte bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘na so, bhikkhu, balībaddo. Māro eso pāpimā tumhākaṃ vicakkhukammāya āgato’’ti. Atha kho bhagavā ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Rūpaṃ vedayitaṃ saññā, viññāṇaṃ yañca saṅkhataṃ;

Nesohamasmi netaṃ me, evaṃ tattha virajjati.

‘‘Evaṃ virattaṃ khemattaṃ, sabbasaṃyojanātigaṃ;

Anvesaṃ sabbaṭṭhānesu, mārasenāpi nājjhagā’’ti.

Atha kho māro pāpimā...pe... tatthevantaradhāyīti.

6. Pattasuttavaṇṇanā [Atthakathā]

152. Chaṭṭhe pañcannaṃ upādānakkhandhānaṃ upādāyāti pañca upādānakkhandhe ādiyitvā, sabhāvasāmaññalakkhaṇavasena nānappakārato vibhajitvā dassento. Sandassetīti khandhānaṃ sabhāvalakkhaṇādīni dasseti. Samādapetīti gaṇhāpeti. Samuttejetīti samādānamhi ussāhaṃ janeti. Sampahaṃsetīti paṭividdhaguṇena vodāpeti jotāpeti. Aṭṭhiṃ katvāti atthikaṃ katvā, ‘‘ayaṃ no adhigantabbo attho’’ti evaṃ sallakkhetvā tāya desanāya atthikā hutvā. Manasi katvāti citte ṭhapetvā. Sabbacetaso samannāharitvāti sabbena tena kammakārakacittena samannāharitvā. Ohitasotāti ṭhapitāsotā. Abbhokāse nikkhittāti otāpanatthāya ṭhapitā.

Rūpaṃ vedayitaṃ saññānti, ete rūpādayo tayo khandhā. Yañca saṅkhatanti iminā saṅkhārakkhandho gahito. Evaṃ tattha virajjatīti ‘‘eso ahaṃ na homi, etaṃ mayhaṃ na hotī’’ti passanto evaṃ tesu khandhesu virajjati. Khemattanti khemībhūtaṃ attabhāvaṃ. Iminā phalakkhaṇaṃ dasseti. Anvesanti bhavayonigatiṭhitisattāvāsasaṅkhātesu sabbaṭṭhānesu pariyesamānā. Nājjhagāti na passīti. Chaṭṭhaṃ.

Ý kiến bạn đọc