Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TẠI SAO ĐI TU - KINH MỤC ĐÍCH CỦA PHẠM HẠNH LÀ GÌ? (Kimatthiyabrahmacariyasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || TẠI SAO ĐI TU - KINH MỤC ĐÍCH CỦA PHẠM HẠNH LÀ GÌ? (Kimatthiyabrahmacariyasuttaṃ)

Chủ nhật, 01/06/2025, 03:42 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 26.5.2025

TẠI SAO ĐI TU

KINH MỤC ĐÍCH CỦA PHẠM HẠNH LÀ GÌ? (Kimatthiyabrahmacariyasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Mới Và Cũ (SN.35.152)

A monk walking on a chain

AI-generated content may be incorrect.

Con đường tu tập theo lời Phật dạy nếu nói ngắn gọn là con đường thoát khổ. Khổ đau ở đây không nằm trong ý nghĩa hạn hẹp là cảm thọ khổ vui. Mà là tất cả năm uẩn với bản chất do duyên mà sanh mà diệt, nên không bao giờ mang lại sự thoả mãn hoàn toàn. Đó cũng là bản chất thế gian không nằm theo chủ quyền của bất cứ ai. Có một điều rõ ràng là phải nỗ lực tu tập phạm hạnh mới thật sự đạt đến mức độ “chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc”.

KINH VĂN

152. “sace vo, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ — ‘kimatthiyaṃ, āvuso, samaṇe gotame brahmacariyaṃ vussatī’ti? evaṃ puṭṭhā tumhe, bhikkhave, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ byākareyyātha — ‘dukkhassa kho, āvuso, pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’ti. sace pana vo, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ — ‘katamaṃ panāvuso, dukkhaṃ, yassa pariññāya samaṇe gotame brahmacariyaṃ vussatī’ti? evaṃ puṭṭhā tumhe, bhikkhave, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ byākareyyātha —

“cakkhu kho, āvuso, dukkhaṃ; tassa pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussati. rūpā dukkhā; tesaṃ pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussati. cakkhuviññāṇaṃ dukkhaṃ; tassa pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussati. cakkhusamphasso dukkho; tassa pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussati. yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi dukkhaṃ; tassa pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussati ... pe ... jivhā dukkhā... mano dukkho; tassa pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussati ... pe ... yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi dukkhaṃ; tassa pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussati. idaṃ kho, āvuso, dukkhaṃ; yassa pariññāya bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’ti. evaṃ puṭṭhā tumhe, bhikkhave, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ byākareyyāthā”ti. sattamaṃ.

152. “Này các Tỷ-kheo, nếu có người du sĩ ngoại giáo hỏi các con:

‘Này các hiền giả, vì mục đích gì mà các bạn sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Sa môn Gotama?’

— Nếu bị hỏi như vậy, các con nên trả lời họ như sau:

‘Này các hiền giả, vì để thấu hiểu trọn vẹn về khổ mà chúng tôi sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn.’

Rồi, này các Tỷ-kheo, nếu những người du sĩ ấy lại hỏi tiếp:

‘Vậy, này các hiền giả, khổ ấy là gì mà vì đó người ta sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Sa môn Gotama?’

— Nếu bị hỏi như vậy, các Thầy nên trả lời như vầy:

‘Này các hiền giả, mắt là khổ – chính vì để thấu hiểu trọn vẹn điều này mà chúng tôi sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn.

Sắc là khổ – vì để thấu hiểu trọn vẹn điều đó mà chúng tôi sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn. Nhãn thức là khổ… Nhãn xúc là khổ…Và cảm thọ nào khởi lên do duyên nhãn xúc, dù là lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ – điều ấy cũng là khổ. Và vì để thấu hiểu trọn vẹn điều này, chúng tôi sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn.

[Tương tự như vậy:]

Tai là khổ, âm thanh là khổ, nhĩ thức là khổ, nhĩ xúc là khổ…

Mũi, lưỡi, thân… và ý là khổ. Những cảm thọ nào khởi lên do duyên ý xúc, dù là dễ chịu hay khó chịu hay trung tính – đều là khổ. Vì để thấu hiểu trọn vẹn điều này, chúng tôi sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn.

Này các hiền giả, đây chính là khổ – là điều mà vì để thấu hiểu trọn vẹn, người ta sống đời phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn.’

“Này các Tỷ-kheo, nếu bị hỏi như vậy, các con nên trả lời những người du sĩ của các giáo phái khác như thế.”

CHÚ THÍCH

Chữ Dukkha - khổ - trong bài kinh này được hiểu theo phạm trù rộng nhất: tất cả các hành là khổ (sabbe saṅkhārā dukkhā) với đặc tính bất toàn, bất toại.

Mục đích của đời sống phạm hạnh là thấu triệt sự khổ đau đồng nghĩa với sự giác ngộ.

Ai thấu triệt được bản chất của sáu nội xứ, sáu ngoại xứ và các pháp liên hệ (xúc, thọ… được xem là thấu triệt thế giới.

Sự giác ngộ hay thấu triệt phải bằng đời sống phạm hạnh có nghĩa là không phải chỉ lý luận suông mà thấu suốt.

SỚ GIẢI

153. aṭṭhame yaṃ pariyāyaṃ āgammāti yaṃ kāraṇaṃ āgamma. aññatreva saddhāyāti vinā saddhāya saddhaṃ apanetvā. ettha ca saddhāti na paccakkhā saddhā. yo pana parassa evaṃ kira evaṃ kirāti kathentassa sutvā uppanno saddahanākāro, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. ruciādīsupi rucāpetvā khamāpetvā atthetanti gahaṇākāro ruci nāma, evaṃ kira bhavissatīti anussavanaṃ anussavo, nisīditvā ekaṃ kāraṇaṃ cintentassa kāraṇaṃ upaṭṭhāti, evaṃ upaṭṭhitassa atthetanti gahaṇaṃ ākāraparivitakko nāma, kāraṇavitakkoti attho. kāraṇaṃ cintentassa pāpikā laddhi uppajjati, taṃ atthesāti gahaṇākāro diṭṭhinijjhānakkhanti nāma. aññaṃ byākareyyāti imāni pañca ṭhānāni muñcitvā arahattaṃ byākareyya. imasmiṃ sutte sekhāsekhānaṃ paccavekkhaṇā kathitā.

153. Trong bài thứ tám (aṭṭhame):

  • "Yaṃ pariyāyaṃ āgamma" nghĩa là: do nương vào một lý do, nguyên nhân nào đó.
  • "Aññatreva saddhāyā" nghĩa là: không phải do niềm tin (saddhā) – tức không căn cứ vào lòng tin, hay đã gạt bỏ yếu tố lòng tin ra khỏi đây. Ở đây, "saddhā" không phải là lòng tin dựa vào chứng kiến trực tiếp (paccakkha saddhā), mà chỉ đến loại niềm tin sinh khởi khi nghe người khác nói. Ví dụ như nghe người khác kể rằng: “Việc ấy như thế này, như thế kia” rồi sinh lòng tin, đó chính là điều được ám chỉ ở đây.
  • Ruci (ưa thích, thiên vị): Khi nghe điều gì hợp ý, dễ chịu, thì tâm chấp nhận nó là thật, vì ưa thích nên dễ tiếp thu — gọi là ruci.
  • Anussava (truyền thống, lời truyền tụng): Khi nghe nói đi nói lại rằng: “Việc ấy nhất định sẽ xảy ra như vậy”, rồi tin theo vì truyền thống hay lời người xưa, đó gọi là anussava.
  • Ākāraparivitakka (suy luận hình thức): Khi một người ngồi xuống, suy nghĩ về một lý do nào đó, rồi từ lý do đó mà suy ra rằng "nó là như vậy" —thì hành vi này gọi là suy luận dựa trên hình tướng / lý trí (ākāraparivitakka), tức là tư duy theo hình thức lý luận.
  • Diṭṭhinijjhānakkhanti (chấp nhận kiến giải): Khi một người suy nghĩ về một lý do nào đó, rồi sinh ra tà kiến (quan điểm sai lệch), rồi chấp nhận nó là sự thật — hành vi này gọi là diṭṭhinijjhānakkhanti, tức là sự chấp nhận hoàn toàn một kiến giải mang tính tà kiến.

“Aññaṃ byākareyya” nghĩa là: Nếu một người xem nhẹ và loại trừ cả năm lý do nêu trên, mà vẫn có thể tuyên bố đạt được A-la-hán quả (arahatta) thì lời tuyên bố ấy mới được xem là xác đáng.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

151. VII. Với Mục Ðích Gì? (S.iv,138)

1-2) ...

3) -- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Có cái gì, này chư Hiền, Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama?"; được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau:

4) "Này chư Hiền, vì liễu tri đau khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn".

5) Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Thế nào, này chư Hiền, là vì liễu tri đau khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama?"; được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau:

6-11) "Mắt, này chư Hiền, là khổ. Vì liễu tri nó nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. Nhãn xúc là khổ. Vì liễu tri nó nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là khổ. Vì liễu tri cảm thọ ấy nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn... Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là khổ. Vì liễu tri cảm thọ ấy nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn.

12) Ðây là khổ, này chư Hiền, vì liễu tri khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn".

13) Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải trả lời như vậy cho những du sĩ ngoại đạo ấy.

Ý kiến bạn đọc