Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | TÁC ĐỘNG CỦA PHIỀN NÃO, NGHIỆP, QUẢ - Kinh Bhūmija (Bhūmijasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | TÁC ĐỘNG CỦA PHIỀN NÃO, NGHIỆP, QUẢ - Kinh Bhūmija (Bhūmijasuttaṃ)

Thứ ba, 28/02/2023, 18:45 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 28.2.2023


TÁC ĐỘNG CỦA PHIỀN NÃO, NGHIỆP, QUẢ

Kinh Bhūmija (Bhūmijasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương I. Tương Ưng Nhân Duyên (a) - Phẩm Mười Lực (S. ii, 37)

Có nhiều cách trình bày giáo lý duyên khởi. Hoặc gần hoặc xa. Hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Khi nói về nguyên nhân của khổ đau và hạnh phúc, Phật pháp nhấn mạnh duyên tạo chứ không nói ai tạo. Những tác động trùng trùng duyên khởi là một soi sáng quan trọng của giáo lý vô ngã. Cách giảng về duyên sinh qua ba nghiệp thân, ngữ, ý là một góc nhìn khác giống như khi nói về ngũ uẩn và duyên khởi. Cách nói nầy cũng có một số ý nghĩa thực dụng đối với hành giả tu tập thiền quán.

Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā bhūmijo sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā bhūmijo āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca –

‘‘Santāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti. Santi panāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā paraṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti. Santāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkatañca paraṃkatañca sukhadukkhaṃ paññapenti. Santi panāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti. Idha no, āvuso sāriputta, bhagavā kiṃvādī kimakkhāyī, kathaṃ byākaramānā ca mayaṃ vuttavādino ceva bhagavato assāma, na ca bhagavantaṃ abhūtena abbhācikkheyyāma, dhammassa cānudhammaṃ byākareyyāma, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyyā’’ti?

Ngự ở Sāvatthi.

Bấy giờ vào một buổi chiều, Tôn giả Bhūmija từ nơi độc cư tịnh mặc đi đến Tôn giả Sāriputta; sau khi nói lên những lời thăm hỏi thân thiện rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Bhūmija nói với Tôn giả Sāriputta:

-- Này Hiền giả Sāriputta, có một số sa môn, bà la môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm. Này Hiền giả Sāriputta, có một số sa môn, bà la môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do người khác làm. Này Hiền giả Sāriputta, có một số sa môn, bà la môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm và do người khác làm. Này Hiền giả Sāriputta, có một số sa môn, bà la môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh.

Hiền giả Sāriputta, vậy Đức Thế Tôn thuyết như thế nào, dạy thế nào về điểm nầy? Và (nếu được hỏi) chúng tôi trả lời như thế nào để gọi là nói đúng lời Đức Thế Tôn chứ không xuyên tạc hay nói sai sự thật. Pháp chúng tôi trả lời là đúng pháp; và không ai tìm được lý do để chỉ trích.

‘‘Paṭiccasamuppannaṃ kho, āvuso, sukhadukkhaṃ vuttaṃ bhagavatā. Kiṃ paṭicca? Phassaṃ paṭicca. Iti vadaṃ vuttavādī ceva bhagavato assa, na ca bhagavantaṃ abhūtena abbhācikkheyya, dhammassa cānudhammaṃ byākareyya, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyya.

-- Này Hiền giả, Thế Tôn đã nói khổ lạc do duyên mà sanh. Duyên ấy là gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là nói đúng lời Đức Thế Tôn chứ không xuyên tạc hay nói sai sự thật. Pháp chúng tôi trả lời là đúng pháp; và không ai tìm được lý do để chỉ trích.

‘‘Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, tadapi phassapaccayā. Yepi te...pe... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, tadapi phassapaccayā.

Ở đây, này Hiền giả, ở đây những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm; khổ lạc ấy chính do duyên xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do người khác làm; khổ lạc ấy chính do duyên xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm và do người khác làm; khổ lạc ấy chính do duyên xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc không do tự mình làm, không do người khác làm mà do tự nhiên sanh; khổ lạc ấy chính do duyên xúc.

‘‘Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Yepi te...pe. ... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti.

Này Hiền giả, ở đây những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp tuyên bố khổ lạc do tự mình làm; những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do người khác làm; những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm và do người khác làm; những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc không do tự mình làm và không do người khác làm, khổ lạc do tự nhiên sanh, ở mỗi trường hợp họ chắc chắn không thể cảm thọ mà không có xúc.

Assosi kho āyasmā ānando āyasmato sāriputtassa āyasmatā bhūmijena saddhiṃ imaṃ kathāsallāpaṃ. Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando yāvatako āyasmato sāriputtassa āyasmatā bhūmijena saddhiṃ ahosi kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.

‘‘Sādhu sādhu, ānanda, yathā taṃ sāriputto sammā byākaramāno byākareyya. Paṭiccasamuppannaṃ kho, ānanda, sukhadukkhaṃ vuttaṃ mayā. Kiṃ paṭicca? Phassaṃ paṭicca. Iti vadaṃ vuttavādī ceva me assa, na ca maṃ abhūtena abbhācikkheyya, dhammassa cānudhammaṃ byākareyya, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyya.

Tôn giả Ānanda nghe được câu chuyện giữa Tôn giả Sāriputta với Tôn giả Bhūmija. Tôn giả đi đến Đức Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ rồi thuật lại câu chuyện đối thoại ra giữa Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Bhūmija.

[Đức Thế Tôn dạy như sau]:

-- Lành thay,lành thay, này Ānanda! Ai trả lời như vậy là trả lời một cách chơn chánh sẽ nói như Sāriputta. Này Ānanda, Ta nói rằng khổ lạc lạc do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là nói đúng lời Ta thuyết chứ không xuyên tạc hay nói sai sự thật. Pháp trả lời là đúng pháp; và không ai tìm được lý do để chỉ trích.

‘‘Tatrānanda, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā. Yepi te...pe... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.

Này Ānanda, ở đây những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm; khổ lạc ấy chính do duyên xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do người khác làm; khổ lạc ấy chính do duyên xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm và do người khác làm; khổ lạc ấy chính do duyên xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc không do tự mình làm, không do người khác làm mà do tự nhiên sanh; khổ lạc ấy chính do duyên xúc.

‘‘Tatrānanda, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Yepi te...pe... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇākammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

Này Ānanda, ở đây những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp tuyên bố khổ lạc do tự mình làm, họ chắc chắn không thể cảm thọ mà không có xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do người khác làm, họ chắc chắn không thể cảm thọ mà không có xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình làm và do người khác làm, họ chắc chắn không thể cảm thọ mà không có xúc. Những sa môn, bà la môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc không do tự mình làm và không do người khác làm, khổ lạc do tự nhiên sanh, họ chắc chắn không thể cảm thọ mà không có xúc.

‘‘Kāye vā hānanda, sati kāyasañcetanāhetu uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Vācāya vā hānanda, sati vacīsañcetanāhetu uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Mane vā hānanda, sati manosañcetanāhetu uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ avijjāpaccayā ca.

Này Ānanda, chỗ nào có thân, do thân tư niệm nên nội tại sanh khởi lạc khổ.

Chỗ nào có khẩu, do khẩu tư niệm nên nội tại sanh khởi lạc khổ.

Chỗ nào có ý, do ý tư niệm nên nội tại sanh khởi lạc khổ.

(Cả ba trường hợp) đều do vô minh chi phối.

‘‘Sāmaṃ vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Pare vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharonti, yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Sampajāno vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Asampajāno vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ.

Này Ānanda, hoặc do chính mình tạo ra thân hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi;

hay người khác tác động tạo ra thân hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi.

Này Ānanda, do cố ý tạo ra thân hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi; hay vô tình tạo ra thân hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi.

‘‘Sāmaṃ vā taṃ, ānanda, vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Pare vā taṃ, ānanda, vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharonti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Sampajāno vā taṃ, ānanda...pe... asampajāno vā taṃ, ānanda, vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ.

Này Ānanda, hoặc do chính mình tạo ra khẩu hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi;

hay người khác tác động tạo ra khẩu hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi.

Này Ānanda, do cố ý tạo ra khẩu hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi; hay vô tình tạo ra khẩu hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi.

“sāmaṃ vā taṃ, ānanda, manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. pare vā taṃ, ānanda, manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharonti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. sampajāno vā taṃ, ānanda ... pe ... asampajāno vā taṃ, ānanda, manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ.

Này Ānanda, hoặc do chính mình tạo ra ý hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi; hay người khác tác động tạo ra ý hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi.

Này Ānanda, do cố ý tạo ra ý hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi; hay vô tình tạo ra ý hành khiến khổ lạc nội tại sanh khởi

‘‘Imesu, ānanda, dhammesu avijjā anupatitā. Avijjāya tveva, ānanda, asesavirāganirodhā so kāyo na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Sā vācā na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. So mano na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Khettaṃ taṃ na hoti...pe... vatthu taṃ na hoti...pe... āyatanaṃ taṃ na hoti...pe... adhikaraṇaṃ taṃ na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkha’’nti. Pañcamaṃ.

Này Ānanda, vô minh ngự trị trong cả sáu pháp này.

Nhưng với sự ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô minh, thân ấy không hiện hữu vốn bị chi phối bởi khổ lạc sanh khởi nội tại.

Nhưng với sự ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô minh, khẩu ấy không hiện hữu vốn bị chi phối bởi khổ lạc sanh khởi nội tại.

Nhưng với sự ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô minh, ý ấy không hiện hữu vốn bị chi phối bởi khổ lạc sanh khởi nội tại.

(Do vậy, thân hành, khẩu hành, ý hành) không là thửa ruộng, không phải là cơ sở, không là căn cứ, không là nền tảng cho duyên tạo khiến khổ lạc sanh khởi nội tại.

Chú Thích

Tôn giả Bhūmija là một trong những người bạn thời niên thiếu của Tôn giả Sāriputta. Vị nầy là cậu ruột của hoàng tử Jasasena.

Ngoại giáo cũng có lập thuyết nghiệp báo (kammavādā) nhưng tất cả đều xoay chung quanh người tạo tác khổ vui (chính mình hay người khác). Đức Phật dạy khổ đau và hạnh phúc do duyên. Duyên ấy bao gồm mấu chốt như được đề cập trong thập nhị nhân duyên.

Đối thoại giữa Tôn giả Sāriputta với Tôn giả Bhūmija giống như bài kinh trước nhưng thay vì nói khổ do ai tạo thì ở đây đề cập cả hai khổ và lạc. (hạnh phúc và khổ đau)

Trong phần giảng dạy của Đức Phật, không chỉ nói khổ lạc do duyên xúc mà Ngài còn đi xa hơn nói về hành với thân tư niệm, khẩu tư niệm, ý tư niệm và hành do duyên vô minh. Khổ lạc ở đây theo Sớ giải thuộc quả dị thục (vipākasukhadukkha). Nói cách khác thì duyên khởi ở đây được trình bày gồm cả vô minh duyên hành, hành duyên thức …

Thân hành, khẩu hành, ý hành (kāyasaṅkhāra, vacīsaṅkhāra, manosaṅkhāra) ở đây đặc biệt nói về thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.

Theo Sớ giải thì khi Đức Phật dạy nghiệp do tự thân tạo tác (sāmaṅ) là đề cập “tâm vô trợ - asaṅkhārikacitta” và nghiệp tạo do người khác tác động là tâm hữu trợ - sasaṅkhārikacitta” như được dạy theo Thắng Pháp Abhidhamma.

Cũng theo Sớ giải thì hành động cố ý (sampajāno) chỉ cho sự tạo tác với ý thức rõ về nghiệp và quả. Ngược lại hành động vô ý (asampajāno) là hành động không có ý thức về nhân quả.

Sớ giải ghi rằng “Này Ānanda, vô minh ngự trị trong cả sáu pháp này - Imesu, ānanda, dhammesu avijjā anupatitā” chỉ cho sự tác động trực tiếp, mà trong Thắng pháp gọi là “cận y duyên (upanissaya-paccayo).

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

5. Bhūmijasuttaṃ

25. Sāvatthiyaṃ viharati. Atha kho āyasmā bhūmijo sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā bhūmijo āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca –

‘‘Santāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti. Santi panāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā paraṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti. Santāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkatañca paraṃkatañca sukhadukkhaṃ paññapenti. Santi panāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti. Idha no, āvuso sāriputta, bhagavā kiṃvādī kimakkhāyī, kathaṃ byākaramānā ca mayaṃ vuttavādino ceva bhagavato assāma, na ca bhagavantaṃ abhūtena abbhācikkheyyāma, dhammassa cānudhammaṃ byākareyyāma, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyyā’’ti?

‘‘Paṭiccasamuppannaṃ kho, āvuso, sukhadukkhaṃ vuttaṃ bhagavatā. Kiṃ paṭicca? Phassaṃ paṭicca. Iti vadaṃ vuttavādī ceva bhagavato assa, na ca bhagavantaṃ abhūtena abbhācikkheyya, dhammassa cānudhammaṃ byākareyya, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyya.

‘‘Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, tadapi phassapaccayā. Yepi te...pe... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, tadapi phassapaccayā.

‘‘Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Yepi te...pe. ... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti.

Assosi kho āyasmā ānando āyasmato sāriputtassa āyasmatā bhūmijena saddhiṃ imaṃ kathāsallāpaṃ. Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando yāvatako āyasmato sāriputtassa āyasmatā bhūmijena saddhiṃ ahosi kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.

‘‘Sādhu sādhu, ānanda, yathā taṃ sāriputto sammā byākaramāno byākareyya. Paṭiccasamuppannaṃ kho, ānanda, sukhadukkhaṃ vuttaṃ mayā. Kiṃ paṭicca? Phassaṃ paṭicca. Iti vadaṃ vuttavādī ceva me assa, na ca maṃ abhūtena abbhācikkheyya, dhammassa cānudhammaṃ byākareyya, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyya.

‘‘Tatrānanda, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā. Yepi te...pe... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.

‘‘Tatrānanda, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṃkataṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Yepi te...pe... yepi te...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇākammavādā asayaṃkāraṃ aparaṃkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

‘‘Kāye vā hānanda, sati kāyasañcetanāhetu uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Vācāya vā hānanda, sati vacīsañcetanāhetu uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Mane vā hānanda, sati manosañcetanāhetu uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ avijjāpaccayā ca.

‘‘Sāmaṃ vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, yaṃpaccayāssa [yaṃpaccayāya (syā. kaṃ.), yaṃpaccayā yaṃ (ka.)] taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Pare vā taṃ [pare vāssa taṃ (sī. pī.), pare vāyataṃ (syā. kaṃ.)], ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharonti, yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Sampajāno vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Asampajāno vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ.

‘‘Sāmaṃ vā taṃ, ānanda, vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Pare vā taṃ, ānanda, vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharonti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Sampajāno vā taṃ, ānanda...pe... asampajāno vā taṃ, ānanda, vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ.

‘‘Sāmaṃ vā taṃ, ānanda, manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Pare vā taṃ, ānanda, manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharonti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Sampajāno vā taṃ, ānanda...pe... asampajāno vā taṃ, ānanda, manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ.

‘‘Imesu, ānanda, dhammesu avijjā anupatitā. Avijjāya tveva, ānanda, asesavirāganirodhā so kāyo na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Sā vācā na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. So mano na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. Khettaṃ taṃ na hoti...pe... vatthu taṃ na hoti...pe... āyatanaṃ taṃ na hoti...pe... adhikaraṇaṃ taṃ na hoti yaṃpaccayāssa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkha’’nti. Pañcamaṃ.

5. Bhūmijasuttavaṇṇanā

25-26. Pañcame bhūmijoti tassa therassa nāmaṃ. Sesamidhāpi purimasutte vuttanayeneva veditabbaṃ. Ayaṃ pana viseso – yasmā idaṃ sukhadukkhaṃ na kevalaṃ phassapaccayā uppajjati, kāyenapi kariyamānaṃ karīyati, vācāyapi manasāpi, attanāpi kariyamānaṃ karīyati, parenapi kariyamānaṃ karīyati, sampajānenapi kariyamānaṃ karīyati, asampajānenapi, tasmā tassa aparampi paccayavisesaṃ dassetuṃ kāye vā hānanda, satītiādimāha. Kāyasañcetanāhetūti kāyadvāre uppannacetanāhetu. Vacīsañcetanāmanosañcetanāsupi eseva nayo. Ettha ca kāyadvāre kāmāvacarakusalākusalavasena vīsati cetanā labbhanti, tathā vacīdvāre. Manodvāre navahi rūpārūpacetanāhi saddhiṃ ekūnatiṃsāti tīsu dvāresu ekūnasattati cetanā honti, tappaccayaṃ vipākasukhadukkhaṃ dassitaṃ. Avijjāpaccayā cāti idaṃ tāpi cetanā avijjāpaccayā hontīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Yasmā pana taṃ yathāvuttacetanābhedaṃ kāyasaṅkhārañceva vacīsaṅkhārañca manosaṅkhārañca parehi anussāhito sāmaṃ asaṅkhārikacittena karoti, parehi kāriyamāno sasaṅkhārikacittenāpi karoti, ‘‘idaṃ nāma kammaṃ karoti, tassa evarūpo nāma vipāko bhavissatī’’ti, evaṃ kammañca vipākañca jānantopi karoti, mātāpitūsu cetiyavandanādīni karontesu anukarontā dārakā viya kevalaṃ kammameva jānanto ‘‘imassa pana kammassa ayaṃ vipāko’’ti vipākaṃ ajānantopi karoti, tasmā taṃ dassetuṃ sāmaṃ vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharotītiādi vuttaṃ.

Imesu, ānanda, dhammesūti ye ime ‘‘sāmaṃ vā taṃ, ānanda, kāyasaṅkhāra’’ntiādīsu catūsu ṭhānesu vuttā chasattati dvesatā cetanādhammā, imesu dhammesu avijjā upanissayakoṭiyā anupatitā. Sabbepi hi te ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā’’ti ettheva saṅgahaṃ gacchanti. Idāni vivaṭṭaṃ dassento avijjāya tvevātiādimāha. So kāyo na hotīti yasmiṃ kāye sati kāyasañcetanāpaccayaṃ ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ uppajjati, so kāyo na hoti. Vācāmanesupi eseva nayo. Apica kāyoti cetanākāyo, vācāpi cetanāvācā, manopi kammamanoyeva. Dvārakāyo vā kāyo. Vācāmanesupi eseva nayo. Khīṇāsavo cetiyaṃ vandati, dhammaṃ bhaṇati, kammaṭṭhānaṃ manasi karoti, kathamassa kāyādayo na hontīti? Avipākattā. Khīṇāsavena hi kataṃ kammaṃ neva kusalaṃ hoti nākusalaṃ. Avipākaṃ hutvā kiriyāmatte tiṭṭhati, tenassa te kāyādayo na hontīti vuttaṃ.

Khettaṃ taṃ na hotītiādīsupi viruhanaṭṭhena taṃ khettaṃ na hoti, patiṭṭhānaṭṭhena vatthu na hoti, paccayaṭṭhena āyatanaṃ na hoti, kāraṇaṭṭhena adhikaraṇaṃ na hoti. Sañcetanāmūlakañhi ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ uppajjeyya, sā sañcetanā etesaṃ viruhanādīnaṃ atthānaṃ abhāvena tassa sukhadukkhassa neva khettaṃ, na vatthu na āyatanaṃ, na adhikaraṇaṃ hotīti. Imasmiṃ sutte vedanādīsu sukhadukkhameva kathitaṃ, tañca kho vipākamevāti. Pañcamaṃ.

Chaṭṭhaṃ upavāṇasuttaṃ uttānameva. Ettha pana vaṭṭadukkhameva kathitanti. Chaṭṭhaṃ.

Ý kiến bạn đọc