Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || SỰ TÌM KIẾM VÔ VỌNG - Kinh Tầm Cầu Vui Sướng (Abhinandamānasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || SỰ TÌM KIẾM VÔ VỌNG - Kinh Tầm Cầu Vui Sướng (Abhinandamānasuttaṃ)

Thứ ba, 04/06/2024, 18:06 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 4.6.2024

SỰ TÌM KIẾM VÔ VỌNG

Kinh Tầm Cầu Vui Sướng (Abhinandamānasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm A-La-Hán (S,iii,65)

Theo Phật Pháp, thì sự tầm cầu dục lạc ở năm uẩn là biểu hiện của tập đế hay nhân sanh khổ. Chúng ta tìm kiếm hạnh phúc ở năm uẩn, vì không biết có thứ hạnh phúc khác hơn là hạnh phúc của diệt đế. Chính sự truy cầu hạnh phúc ở những nền tảng bị vô thường, khổ não, vô ngã nên kết quả là sầu, bi, khổ, ưu, ai. Không ai có thể xây dựng lâu đài bền vững trên bãi cát. Cũng chẳng ai có thể chạy theo đau khổ mà tìm thấy hạnh phúc chân thực.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ.

Atha kho aññataro bhikkhu …pe… ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: “sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu …pe… ātāpī pahitatto vihareyyan”ti.

Tôi được nghe như vầy,

Một thuở, Đức Thế Tôn ngự ở Sāvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), ngôi già lam của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) (dâng cúng).

Bấy giờ có một vị tỳ khưu đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Vì tỳ khưu ấy bạch rằng:

—Bạch Đức Thế Tôn, tốt lành thay Đức Thế Tôn thuyết pháp cô đọng súc tích cho con! Sau khi nghe thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng.

“Abhinandamāno kho, bhikkhu, baddho mārassa; anabhinandamāno mutto pāpimato”ti.

“Aññātaṃ, bhagavā, aññātaṃ, sugatā”ti.

—Này Tỳ khưu, người tầm cầu vui sướng bị trói buộc bởi Ác ma; người không tầm cầu vui sướng giải thoát khỏi Ác ma.

—Bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

“Yathā kathaṃ pana tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsī”ti?

“Rūpaṃ kho, bhante, abhinandamāno baddho mārassa; anabhinandamāno mutto pāpimato. Vedanaṃ … saññaṃ … saṅkhāre … viññāṇaṃ abhinandamāno baddho mārassa; anabhinandamāno mutto pāpimato.

Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.

—Này Tỳ khưu, Thầy hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi điều Ta nói một cách ngắn gọn như thế nào?

—Bạch Đức Thế Tôn, ai tầm cầu vui sướng ở sắc bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở sắc giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở thọ bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở thọ giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở tưởng bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở tưởng giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở hành bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở hành giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở thức bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở thức giải thoát khỏi Ác ma.

Bạch Thế Tôn, với lời nói cô đọng của Đức Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

“Sādhu sādhu, bhikkhu. Sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsi.

Rūpaṃ kho, bhikkhu, abhinandamāno baddho mārassa; anabhinandamāno mutto pāpimato. Vedanaṃ … saññaṃ … saṅkhāre … viññāṇaṃ abhinandamāno baddho mārassa; anabhinandamāno mutto pāpimato.

—Tốt lắm, tốt lắm, này Tỳ khưu với lời nói cô đọng của Ta, Thầy đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi.

Ai tầm cầu vui sướng ở sắc bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở sắc giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở thọ bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở thọ giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở tưởng bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở tưởng giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở hành bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở hành giải thoát khỏi Ác ma. Ai tầm cầu vui sướng ở thức bị trói buộc bởi Ác ma; ai không tầm cầu vui sướng ở thức giải thoát khỏi Ác ma.

Này Tỳ khưu như vậy với lời nói cô đọng này của Ta, Thầy đã hiểu một cách rộng rãi.

Imassa kho, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti …pe… aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosīti.

Rồi vị tỳ khưu ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía phải hướng về Ngài rồi ra đi.

Và vị tỳ khưu ấy sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng, không bao lâu chứng được mục đích mà một thiện gia nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ thế tục, sống không gia đình hướng đến là vô thượng cứu cánh phạm hạnh. Vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Vị tỳ khưu ấy đã trở thành một trong những vị vô sanh ứng cúng.

 

 

Chú Thích

Chữ “abhinandamāno” từ động từ “abhinandati” có nghĩa là vui theo, tìm cầu vui sướng. Thí dụ, một người nghiện cờ bạc luôn có ý hướng tìm cảm giác sung sướng tại các sòng bạc. Ở đây, chỉ cho sự tìm kiếm cảm giác thích thú ở sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Cũng như nhiều bài kinh khác trong Phẩm A La Hán này, một vị tỳ khưu được Đức Phật khai thị trong sự quán chiếu năm uẩn. Khía cạnh Đức Phật đề cập khế hợp với căn cơ của vị này, nên nhanh chóng lãnh hội và chứng ngộ quả vị giải giải thoát.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Sớ Giải Abhinandamānasuttaṃ

tatiye abhinandamānoti taṇhāmānadiṭṭhiabhinandanāhiyeva abhinandamāno. tatiyaṃ.

Ý kiến bạn đọc