Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || SỰ MÊ LẦM SÂU KÍN TRONG TÂM THỨC - Kinh Từ Bỏ Vô Minh (avijjāpahānasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || SỰ MÊ LẦM SÂU KÍN TRONG TÂM THỨC - Kinh Từ Bỏ Vô Minh (avijjāpahānasuttaṃ)

Thứ tư, 05/02/2025, 07:41 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 4.2.2025

SỰ MÊ LẦM SÂU KÍN TRONG TÂM THỨC

Kinh Từ Bỏ Vô Minh (avijjāpahānasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Vô Minh (SN.35.53)

Vô minh là sự mê lầm nhưng không phải là sự ngu ngốc nhất thời, mà là cái nhìn sai lạc bao trùm lên cuộc sống, đến mức độ không thể thấy được đó là cái nhìn sai. Lịch sử nhân loại có vô số thí dụ như vậy. Thí dụ như niềm tin trái đất bằng phẳng, hay thế giới chỉ mới 10 ngàn tuổi từ lúc “tạo thiên lập địa”, hoặc không biết về vi trùng truyền nhiễm bệnh mà mắt thường không thấy được. Đức Phật dạy về sự chấp thủ sai lạc của chấp ngã hằng hữu trong thế giới hiện tượng vốn tụ tán nhiều nhân, nhiều duyên. Sáu nội xứ, sáu ngoại xứ đều vô thường với bản chất “hữu sanh, hữu diệt”. Chỉ khi thành thật chấp nhận thì vô minh diệt và minh sanh khởi.

Kinh văn

53. sāvatthinidānaṃ. atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — “kathaṃ nu kho, bhante, jānato kathaṃ passato avijjā pahīyati, vijjā uppajjatī”ti?

“cakkhuṃ kho, bhikkhu, aniccato jānato passato avijjā pahīyati, vijjā uppajjati. rūpe aniccato jānato passato avijjā pahīyati, vijjā uppajjati. cakkhuviññāṇaṃ... cakkhusamphassaṃ... yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi aniccato jānato passato avijjā pahīyati, vijjā uppajjati. sotaṃ... ghānaṃ... jivhaṃ... kāyaṃ... manaṃ aniccato jānato passato avijjā pahīyati, vijjā uppajjati. dhamme ... manoviññāṇaṃ... manosamphassaṃ... yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi aniccato jānato passato avijjā pahīyati, vijjā uppajjati. evaṃ kho, bhikkhu, jānato evaṃ passato avijjā pahīyati, vijjā uppajjatī”ti. paṭhamaṃ.

53. Tại Sāvatthī. Khi ấy, một vị tỳ khưu đi đến gần Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên, và bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, làm thế nào để một người có thể hiểu biết, có thể thấy rõ, để vô minh được từ bỏ và minh sinh khởi?”

Đức Phật dạy:

“Này tỳ khưu, khi một người biết và thấy rằng mắt là vô thường, thì vô minh được từ bỏ và trí tuệ khởi sinh. Khi một người biết và thấy rằng sắc là vô thường, thì vô minh được từ bỏ và minh sinh khởi. Khi một người biết và thấy rằng nhãn thức là vô thường... khi biết và thấy rằng nhãn xúc là vô thường... Khi biết và thấy rằng bất cứ cảm thọ nào khởi sinh do duyên nhãn xúc—dù là lạc thọ, khổ thọ hay không khổ không lạc thọ—là vô thường, thì vô minh được từ bỏ và minh sinh khởi.

(Tương tự), khi biết và thấy rằng tai… mũi… lưỡi… thân… ý là vô thường, thì vô minh được từ bỏ và trí tuệ khởi sinh. Khi biết và thấy rằng các pháp là vô thường... khi biết và thấy rằng ý thức là vô thường... khi biết và thấy rằng ý xúc là vô thường... Khi biết và thấy rằng bất cứ cảm thọ nào khởi sinh do duyên ý xúc—dù là lạc thọ, khổ thọ hay không khổ không lạc thọ—là vô thường, thì vô minh được từ bỏ và minh sinh khởi .

Này tỳ khưu, khi một người biết và thấy như vậy, vô minh được từ bỏ và minh sinh khởi.”

Chú Thích

 

Phẩm Vô Minh gồm 10 bài kinh khởi đầu với Kinh Diệt Tận Vô Minh.

Định nghĩa về vô minh theo sớ giải là không biết về thực tại qua bốn phương diện: khổ, nhân sanh khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ. Đối ngược lại, minh là tuệ giác thấy rõ tính phổ quát của toàn bộ cuộc sống.

Sớ giải cũng ghi rằng “minh” đối lập với vô minh là tuệ giác của chư vị a la hán.

Theo Sớ Giải, khi Đức Phật giảng bài kinh này, Ngài đặc biệt nói về bản chất vô thường vì với phần đông người tu tập hiện tượng sinh và diệt dễ nắm bắt nhất.

 

Sớ Giải

53-62. avijjāvagge avijjāti catūsu saccesu aññāṇaṃ. vijjāti arahattamaggavijjā. aniccato jānato passatoti dukkhānattavasenāpi jānato passato pahīyatiyeva, idaṃ pana aniccavasena kathite bujjhanakapuggalassa ajjhāsayena vuttaṃ. eseva nayo sabbattha. api cettha saṃyojanāti dasa saṃyojanāni. āsavāti cattāro āsavā. anusayāti satta anusayā. sabbupādānapariññāyāti sabbesaṃ catunnampi upādānānaṃ tīhi pariññāhi parijānanatthāya. pariyādānāyāti khepanatthāya. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Chú thích các bài kinh từ số 53 đến 62

"Avijjā" (Vô minh) Là sự không biết về bốn sự thật (catūsu saccesu aññāṇaṃ), tức là không hiểu rõ Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).

"Vijjā" (Trí tuệ): Ở đây đề cập đến trí tuệ của tứ đạo a la hán (arahattamaggavijjā), tức là sự giác ngộ hoàn toàn.

"Aniccato jānato passato" (Biết và thấy theo khía cạnh vô thường) Khi biết và thấy vô thường, thì vô minh được đoạn trừ và trí tuệ sinh khởi. Mặc dù vô minh cũng có thể được từ bỏ khi thấy sự khổ (dukkha) và vô ngã (anatta), nhưng ở đây nhấn mạnh vào sự vô thường (anicca), vì đó là cách dễ làm thức tỉnh một người chưa giác ngộ (bujjhanakapuggala).

"Eseva nayo sabbattha" (Cũng theo cách này ở mọi chỗ khác) Điều này có nghĩa là nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các căn và pháp khác.

"Saṃyojanā" (Các kiết sử) Đây là mười kiết sử (dasa saṃyojanāni), "Āsavā" (Các lậu hoặc) Gồm bốn loại lậu hoặc (cattāro āsavā):"Anusayā" (Các tùy miên – phiền não tiềm ẩn) Gồm bảy loại tùy miên (satta anusayā):Sabbupādānapariññāyā" (Liễu tri các thủ) Gồm bốn loại chấp thủ (catunnampi upādānānaṃ):"Pariyādānāya" (Sự diệt tận hoàn toàn) có nghĩa là sự tiêu diệt hoàn toàn (khepanatthāya), tức là đoạn trừ tất cả các kiết sử và lậu hoặc.

"Sesaṃ sabbattha uttānameva" (Phần còn lại đều rõ ràng) Câu này có nghĩa rằng các bài kinh còn lại đã quá rõ ràng và không cần giải thích thêm.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.

I. Phẩm Vô Minh

Nhân duyên ở Sàtthi.

53.I. Vô Minh (S.iv,30)

1) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Do biết như thế nào, bạch Thế Tôn, do thấy như thế nào, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi?

4) -- Này Tỷ-kheo, do biết, do thấy mắt là vô thường, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi. Do biết, do thấy các sắc là vô thường, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi... nhãn thức... nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc ; do biết, do thấy cảm thọ ấy là vô thường, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.

5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...

9) Do biết, do thấy ý là vô thường, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi... Các pháp... Ý thức... Ý xúc... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc ; do biết, do thấy cảm thọ ấy là vô thường, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.

10) Do biết như vậy, này các Tỷ-kheo, do thấy như vậy, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.

Ý kiến bạn đọc