- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 22.11.2022
SỞ HÀNH XẤU HƠN KẺ XẤU
Kinh Không Gây Hại (Nadubbhiyasuttaṃ)
CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA, PHẨM THỨ NHẤT (S. i, 225)
Đã là a tu la vương và có tâm muốn tấn công thiên chủ thì có thể gọi là người xấu. Thế mà khi nói về những cái xấu tệ hại hơn cái xấu của chính mình thì a tu la vương, vốn là vị thiên có kiến văn, đã nêu lên bốn điều: vì ác tâm bóp méo sự thật, huỷ báng thánh nhân, phản bội bạn hiền, vong ân bội nghĩa. Phải “xấu hơn cái xấu” mới làm những điều như vậy. Sớ giải cũng nói bốn hành vi nầy là “bốn căn bệnh của thời đại” chỉ có trong kiếp trái đất nầy. Xem ra giữa thế giới nhân thiên có những ác pháp mà dù ở đâu, thời nào cũng đáng sợ. Câu chuyện giống như có những cái dơ mà người vốn ở dơ vẫn thấy gớm ghiếc.
Sāvatthiyaṃ. ‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakkassa devānamindassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘yopi me assa supaccatthiko tassapāhaṃ na dubbheyya’nti. Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkassa devānamindassa cetasā cetoparivitakkamaññāya yena sakko devānamindo tenupasaṅkami. Addasā kho, bhikkhave, sakko devānamindo vepacittiṃ asurindaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna vepacittiṃ asurindaṃ etadavoca – ‘tiṭṭha, vepacitti, gahitosī’ti.
‘‘Yadeva te, mārisa, pubbe cittaṃ, tadeva tvaṃ mā pajahāsī’’ti.
‘‘Sapassu ca me, vepacitti, adubbhāyā’’ti.
Tại Sāvatthi.
Này chư Tỳ khưu, thuở xưa Thiên chủ Sakka trong lúc độc cư an tịnh khởi lên suy nghĩ như sau: Đối với bất cứ ai dù là kẻ thâm thù với ta, ta cũng không nên gây tổn hại. Này chư Tỳ khưu, bấy giờ a tu la vương Vepacitti với tâm của mình biết được tâm của Thiên chủ liền tiến gần đến Thiên chủ Sakka.
Trông thấy Vepacitti từ xa Thiên chủ Sakka thốt lên:
“Hãy dừng lại Vepacitti, ông đã bị bắt”.
"Thưa Ngài, đừng nên từ bỏ những ý nghĩ vừa khởi lên trong tâm”
"Này Vepacitti, hãy thề là không gây tổn hại cho ta”
(Vepacitti):
‘‘Yaṃ musā bhaṇato pāpaṃ, yaṃ pāpaṃ ariyūpavādino;
Mittadduno ca yaṃ pāpaṃ, yaṃ pāpaṃ akataññuno;
Tameva pāpaṃ phusatu, yo te dubbhe sujampatī’’ti.
“Xấu ác do vọng ngữ
Xấu ác do huỷ báng
Đối với các bậc thánh
Xấu ác do phản bạn
Xấu ác do vong ân
Ai gây hại cho Ngài
Bị xấu ác như vậy
Hỡi Chồng của Sujā.
‘‘Yaṃ musā bhaṇato pāpaṃ = xấu ác do nói dối
yaṃ pāpaṃ ariyūpavādino = xấu ác do huỷ báng thánh nhân
Mittadduno ca yaṃ pāpaṃ = xấu ác do phản bạn
yaṃ pāpaṃ akataññuno = xấu ác do vong ân bội nghĩa
Tameva pāpaṃ phusatu yo te dubbhe sujampatī’’ti = ai gây hại cho chồng của Sujā bị ác xấu như vậy.
Theo Sớ giải khi Thiên chủ Sakka thốt lời ‘tiṭṭha, vepacitti, gahitosī – hãy dừng lại hỡi Vepacitti, ông đã bị bắt” thời lập tức Vepacitti bị “khổn tiên thằng” trói cổ và tứ chi. (câu nầy sau nầy trở thành thần chú được nhiều người gia trì nhưng ít khi hiểu nghĩa).
Theo Sớ giải câu thề của a tu la vương liên quan tới bốn điều đại ác (mahāpāpāni) xảy ra trong kiếp trái đất nầy: một là nói sai sự thật vì ác tâm như ghi trong kinh Bổn sanh Cetiya (chuyện tiền thân số 422); hai là huỷ báng thánh nhân như chuyện Kokālika; ba là phản bạn như trong kinh Bổn sanh Mahākapi (chuyện tiền thân số 516); bốn là vong ơn bội nghĩa như các câu chuyện về Devadatta (Đề bà đạt đa). Đây là bốn hành vi khiến một người trở thành xấu ác hơn những phiền não bất thiện sanh khởi hằng ngày.
A tu la vương gọi Thiên chủ Đế Thích là Sujampati (chồng của Sujā) là cách gọi dùng ân tình để thương lượng vì Sujā là con gái của a tu la vương. Theo vai vế mà nói thì Thiên chủ là rể đông sàng của a tu la vương.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
7. Nadubbhiyasuttaṃ [Mūla]
253. Sāvatthiyaṃ. ‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakkassa devānamindassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘yopi me assa supaccatthiko tassapāhaṃ na dubbheyya’nti. Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkassa devānamindassa cetasā cetoparivitakkamaññāya yena sakko devānamindo tenupasaṅkami. Addasā kho, bhikkhave, sakko devānamindo vepacittiṃ asurindaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna vepacittiṃ asurindaṃ etadavoca – ‘tiṭṭha, vepacitti, gahitosī’’’ti.
‘‘Yadeva te, mārisa, pubbe cittaṃ, tadeva tvaṃ mā pajahāsī’’ti [tadeva tvaṃ mārisa pahāsīti (sī. syā. kaṃ.)].
‘‘Sapassu ca me, vepacitti, adubbhāyā’’ti [adrubbhāya (ka.)].
‘‘Yaṃ musā bhaṇato pāpaṃ, yaṃ pāpaṃ ariyūpavādino;
Mittadduno ca yaṃ pāpaṃ, yaṃ pāpaṃ akataññuno;
Tameva pāpaṃ phusatu [phusati (sī. pī.)], yo te dubbhe sujampatī’’ti.
7. Nadubbhiyasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
253. Sattame upasaṅkamīti ‘‘ayaṃ sakko ‘yopi me assa supaccatthiko, tassa pāhaṃ na dubbheyya’nti cinteti, mayā tassa paccatthikataro nāma natthi, vīmaṃsissāmi tāva naṃ, kiṃ nu kho maṃ passitvā dubbhati, na dubbhatī’’ti cintetvā upasaṅkami. Tiṭṭha vepacitti gahitosīti vepacitti, ettheva tiṭṭha, gahito tvaṃ mayāti vadati. Saha vacanenevassa so kaṇṭhapañcamehi bandhanehi baddhova ahosi. Sapassu ca meti mayi adubbhatthāya sapathaṃ karohīti vadati. Yaṃ musābhaṇato pāpanti imasmiṃ kappe paṭhamakappikesu cetiyarañño pāpaṃ sandhāyāha. Ariyūpavādinoti kokalikassa viya pāpaṃ. Mittadduno ca yaṃ pāpanti mahākapijātake mahāsatte duṭṭhacittassa pāpaṃ. Akataññunoti devadattasadisassa akataññuno pāpaṃ. Imāni kira imasmiṃ kappe cattāri mahāpāpāni. Sattamaṃ.