- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 6.11.2021
Kinh Uttara (Uttarasuttaṃ)
Nội dung kinh nầy giống như kinh số 3 phẩm cây lau
RA ĐI CÓ NGHĨA TRỞ VỀ
Kinh Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) (Anāthapiṇḍikasuttaṃ)
(CHƯƠNG II. TƯƠNG ƯNG THIÊN TỬ, PHẨM CẤP CÔ ĐỘC) (S.i,54) - (S.i,55)
Cấp Cô Độc là một cư sĩ hộ pháp vĩ đại. Trong giờ phút lâm chung, ông không muốn làm phiền Đức Phật nên đã cho người nhà đến cung thỉnh tôn giả Sāriputta để được nghe giáo giới. Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc, Trung Bộ, ghi lại cuộc hội kiến đầy xúc động và lợi lạc giữa vị cư sĩ khả kính nầy với bậc thượng thủ thinh văn đệ tử Phật. Ngay sau khi mệnh chung sanh vào cõi Tusita (Đâu suất), thiên tử Cấp Cô Độc lập tức trở lại cõi người đãnh lễ Đức Phật và bày tỏ lòng tri ân với tôn giả Sāriputta. Thành tựu tín tâm bất thối, thân cận bậc chân nhân, nghe diệu pháp là đặc điểm mà các bậc thánh tu đà huờn luôn thể hiện cho dù sanh ở bất cứ cảnh giới nào. Theo Sớ giải thì thiên tử Cấp Cô Độc, thiên nữ Visākā, thiên chủ Sakka là ba vị thánh đệ tử Phật với nhiều công đức hộ pháp có thời gian rất dài sống với quả phúc hiệp thế trước khi viên tịch niết bàn.
Bản dịch HT Thích Minh Châu | Bản hiệu đính | |
Ekamantaṃ ṭhito kho anāthapiṇḍiko devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi – Ðứng một bên, Thiên tử Cấp Cô Ðộc nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
||
‘‘Idañhi taṃ jetavanaṃ, isisaṅghanisevitaṃ; Āvutthaṃ dhammarājena, pītisañjananaṃ mama. |
Ðây là rừng Kỳ Viên, Chỗ trú xứ Thánh chúng, Chỗ ở đấng Pháp Vương, Khiến tâm con hoan hỷ. |
Đây Kỳ Viên Tịnh Xá, Thanh tịnh Tăng cư ngụ, Trú xứ của Pháp Vương, Nơi khiến con hoan hỷ. |
‘‘Kammaṃ vijjā ca dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ; Etena maccā sujjhanti, na gottena dhanena vā. |
Nghiệp, minh và tâm pháp, Giới và tối thắng mạng, Chính những diệu pháp ấy, Khiến chúng sanh thanh tịnh, Không phải vì dòng họ, Không phải vì tài sản. |
Thiện nghiệp, tuệ, chân pháp, Giới hạnh, sống cao cả, Không giòng dõi, sản nghiệp, Thanh tịnh hoá chúng sanh. |
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano; Yoniso vicine dhammaṃ, evaṃ tattha visujjhati. |
Do vậy bậc Hiền giả, Thấy lợi ích chính mình, Chánh giác sát tâm pháp, Như vậy được thanh tịnh. |
Do vậy bậc thiện trí, Biết lợi lạc cho mình, Nghiêm túc chiêm nghiệm pháp, Nhờ vậy tự thanh tịnh. |
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca; Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti. |
Như ngài Xá-lợi-phất, Tuệ, giới và tịch tịnh, Tỷ-kheo đến bờ giác, Ở đây là tối thượng. |
Ngài Sāriputta, Giới, tuệ, và an tịch, Dù tỳ kheo giải thoát, Cao nhất chỉ ngang bằng |
Idamavoca anāthapiṇḍiko devaputto. Idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti. Thiên tử Anāthapiṇḍika nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ ấy. |
||
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – Rồi Thế Tôn sau khi đêm ấy đã qua, liền gọi các Tỷ-kheo và nói: |
||
‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññataro devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, so devaputto mama santike imā gāthāyo abhāsi – -- Này các Tỷ-kheo, đêm nay có Thiên tử, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, vị Thiên tử ấy nói lên bài lệ này trước mặt Ta: |
||
‘‘Idañhi taṃ jetavanaṃ, isisaṅghanisevitaṃ; Āvutthaṃ dhammarājena, pītisañjananaṃ mama. |
"Ðây là rừng Kỳ Viên, Chỗ trú xứ Thánh chúng, Chỗ ở đấng Pháp Vương, Khiến tâm con hoan hỷ. |
Đây Kỳ Viên Tịnh Xá, Thanh tịnh Tăng cư ngụ, Trú xứ của Pháp Vương, Nơi khiến con hoan hỷ. |
‘‘Kammaṃ vijjā ca dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ; Etena maccā sujjhanti, na gottena dhanena vā. |
Nghiệp, minh và tâm pháp, Giới và tối thắng mạng, Chính những diệu pháp ấy, Khiến chúng sanh thanh tịnh, Không phải vì dòng họ, Không phải vì tài sản. |
Thiện nghiệp, tuệ, chân pháp, Giới hạnh, sống cao cả, Không giòng dõi, sản nghiệp, Thanh tịnh hoá chúng sanh. |
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano; Yoniso vicine dhammaṃ, evaṃ tattha visujjhati. |
Do vậy bậc Hiền giả, Thấy lợi ích chính mình, Chánh giác sát tâm pháp, Như vậy được thanh tịnh. |
Do vậy bậc thiện trí, Biết lợi lạc cho mình, Nghiêm túc chiêm nghiệm pháp, Nhờ vậy tự thanh tịnh. |
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca; Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti. |
Như ngài Xá-lợi-phất, Tuệ, giới và tịch tịnh, Tỷ-kheo đến bờ giác, Ở đây là tối thượng." |
Ngài Sāriputta, Giới, tuệ, và an tịch, Dù tỳ kheo giải thoát, Cao nhất chỉ ngang bằng. |
‘‘Idamavoca, bhikkhave, so devaputto. Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti. Này các Tỷ-kheo, Thiên tử ấy nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ. |
||
Evaṃ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca – Ðược nghe nói như vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn: |
||
‘‘so hi nūna, bhante, anāthapiṇḍiko devaputto bhavissati. Anāthapiṇḍiko gahapati āyasmante sāriputte abhippasanno ahosī’’ti. -- Bạch Thế Tôn, có phải vị Thiên tử ấy là Anāthapiṇḍika? Gia chủ Anāthapiṇḍika hết dạ tín thành đối với Tôn giả Sāriputta? |
||
‘‘Sādhu sādhu, ānanda, yāvatakaṃ kho, ānanda, takkāya pattabbaṃ anuppattaṃ taṃ tayā. Anāthapiṇḍiko hi so, ānanda, devaputto’’ti. -- Lành thay! Lành thay! Này Ānanda, cho đến những gì có thể đạt được nhờ suy diễn, này Ānanda, Ông đã đạt được. Này Ānanda, Anāthapiṇḍika là vị Thiên tử ấy. |
“Idañhi taṃ jetavanaṃ | Đây chính là Kỳ Viên Tịnh Xá |
isisaṅghanisevitaṃ | Nơi lui tới của Tăng chúng thanh tịnh |
Āvutthaṃ dhammarājena | Chỗ cư trú của Đấng Pháp Vương |
pītisañjananaṃ mama | Điều nây mang lại cho con niềm hoan hỷ |
“Kammaṃ vijjā ca dhammo ca | Hạnh nghiệp, sự hiểu biết, chân pháp |
sīlaṃ jīvitamuttamaṃ | Giới hạnh, chánh mạng tối thượng |
Etena maccā sujjhanti | Thanh tịnh hoá chúng sanh |
na gottena dhanena vā | Chứ không phải dòng dõi, sản nghiệp |
“Tasmā hi paṇḍito poso | Chính do điều nầy nên bậc thiện trí |
sampassaṃ atthamattano | Người thấy được sự lợi lạc cho bản thân |
Yoniso vicine dhammaṃ | Khéo léo chiêm nghiệm pháp |
evaṃ tattha visujjhati | Nhờ vậy thanh tịnh hoá chính mình |
“Sāriputtova paññāya | Tôn giả Sāriputta là bậc trí tuệ |
sīlena upasamena ca | Giới hạnh và thanh tịnh |
Yopi pāraṅgato bhikkhu | Bất cứ tỳ kheo nào đạt đến giải thoát |
etāvaparamo siyā | Ở mức độ cao nhất chỉ có thể ngang bằng |
Hai câu sau cùng: Cho dù bất cứ vị tỳ kheo nào đạt đến đích điểm giải thoát cao nhất cũng chỉ có thể đồng đằng không hơn được (Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā) là một cách nói xưng tán.
Dịch giả: Hoà Thượng Thích Minh Châu
Hiệu đính và biên soạn Giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng
-ooOoo-
10. Anāthapiṇḍikasuttaṃ [Mūla]
101. Ekamantaṃ ṭhito kho anāthapiṇḍiko devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi –
‘‘Idañhi taṃ jetavanaṃ, isisaṅghanisevitaṃ;
Āvutthaṃ dhammarājena, pītisañjananaṃ mama.
‘‘Kammaṃ vijjā ca dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ;
Etena maccā sujjhanti, na gottena dhanena vā.
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano;
Yoniso vicine dhammaṃ, evaṃ tattha visujjhati.
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca;
Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti.
Idamavoca anāthapiṇḍiko devaputto. Idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti.
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññataro devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, so devaputto mama santike imā gāthāyo abhāsi –
‘‘Idañhi taṃ jetavanaṃ, isisaṅghanisevitaṃ;
Āvutthaṃ dhammarājena, pītisañjananaṃ mama.
‘‘Kammaṃ vijjā ca dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ;
Etena maccā sujjhanti, na gottena dhanena vā.
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano;
Yoniso vicine dhammaṃ, evaṃ tattha visujjhati.
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca;
Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti.
‘‘Idamavoca, bhikkhave, so devaputto. Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti.
Evaṃ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘so hi nūna, bhante, anāthapiṇḍiko devaputto bhavissati. Anāthapiṇḍiko gahapati āyasmante sāriputte abhippasanno ahosī’’ti. ‘‘Sādhu sādhu, ānanda, yāvatakaṃ kho, ānanda, takkāya pattabbaṃ anuppattaṃ taṃ tayā. Anāthapiṇḍiko hi so, ānanda, devaputto’’ti
8-10. Kakudhasuttādivaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
99. Aṭṭhame kakudho devaputtoti ayaṃ kira kolanagare mahāmoggallānattherassa upaṭṭhākaputto daharakāleyeva therassa santike vasanto jhānaṃ nibbattetvā kālaṅkato, brahmaloke uppajji. Tatrāpi naṃ kakudho brahmātveva sañjānanti. Nandasīti tussasi. Kiṃ laddhāti tuṭṭhi nāma kiñci manāpaṃ labhitvā hoti, tasmā evamāha. Kiṃ jīyitthāti yassa hi kiñci manāpaṃ cīvarādivatthu jiṇṇaṃ hoti, so socati, tasmā evamāha. Aratī nābhikīratīti ukkaṇṭhitā nābhibhavati. Aghajātassāti dukkhajātassa, vaṭṭadukkhe ṭhitassāti attho. Nandījātassāti jātataṇhassa. Aghanti evarūpassa hi vaṭṭadukkhaṃ āgatameva hoti. ‘‘Dukkhī sukhaṃ patthayatī’’ti hi vuttaṃ. Iti aghajātassa nandī hoti, sukhavipariṇāmena dukkhaṃ āgatamevāti nandījātassa aghaṃ hoti. Aṭṭhamaṃ.
100. Navamaṃ vuttatthameva. Navamaṃ.
101.Dasame ānandattherassa anumānabuddhiyā ānubhāvappakāsanatthaṃ aññataroti āha. Dasamaṃ.