- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bāi học ngāy 21.1.2025
QUÁN CHIẾU TỪNG PHẦN MỘT
Kinh Cách Tốt Để Nhổ Tận Gốc I & II (paṭhamasamugghātasappāyasuttaṃ) (dutiyasamugghātasappāyasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Tất Cả (SN.35.31&32)
Chấp thủ là biểu hiện của vô minh và ái dục. Tuệ giác là công cụ phá mê. Phương cách thắp sáng tuệ giác là quán chiếu uẩn, xứ, giới với cái nhìn xác thật. Vô thường là điều xác thật, bất toàn là điều xác thật, vô ngã là điều xác thật. Thấy biết xác thật xoá tan vọng tưởng và ảo kiến. Đó là phương thức nhổ lên những điên đảo vọng tưởng.
Kinh văn
Kinh Cách Tốt Để Nhổ Tận Gốc I
31. “sabbamaññitasamugghātasappāyaṃ vo, bhikkhave, paṭipadaṃ desessāmi. taṃ suṇātha. katamā ca sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasappāyā paṭipadā? idha, bhikkhave, bhikkhu cakkhuṃ na maññati, cakkhusmiṃ na maññati, cakkhuto na maññati, cakkhuṃ meti na maññati. rūpe na maññati ... pe ... cakkhuviññāṇaṃ na maññati, cakkhusamphassaṃ na maññati, yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi na maññati, tasmimpi na maññati, tatopi na maññati, taṃ meti na maññati. yañhi, bhikkhave, maññati, yasmiṃ maññati, yato maññati, yaṃ meti maññati, tato taṃ hoti aññathā. aññathābhāvī bhavasatto loko bhavamevābhinandati ... pe ... jivhaṃ na maññati, jivhāya na maññati, jivhāto na maññati, jivhā meti na maññati. rase na maññati ... pe ... jivhāviññāṇaṃ na maññati, jivhāsamphassaṃ na maññati. yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi na maññati, tasmimpi na maññati, tatopi na maññati, taṃ meti na maññati. yañhi, bhikkhave, maññati, yasmiṃ maññati, yato maññati, yaṃ meti maññati, tato taṃ hoti aññathā. aññathābhāvī bhavasatto loko bhavamevābhinandati ... pe ... manaṃ na maññati, manasmiṃ na maññati, manato na maññati, mano meti na maññati. dhamme na maññati ... pe ... manoviññāṇaṃ na maññati, manosamphassaṃ na maññati. yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi na maññati, tasmimpi na maññati, tatopi na maññati, taṃ meti na maññati. yañhi, bhikkhave, maññati, yasmiṃ maññati, yato maññati, yaṃ meti maññati, tato taṃ hoti aññathā. aññathābhāvī bhavasatto loko bhavamevābhinandati. yāvatā, bhikkhave, khandhadhātuāyatanaṃ tampi na maññati, tasmimpi na maññati, tatopi na maññati, taṃ meti na maññati. so evaṃ amaññamāno na ca kiñci loke upādiyati. anupādiyaṃ na paritassati. aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti. ayaṃ kho sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasappāyā paṭipadā”ti. navamaṃ.
1. “Này chư Tỳ khưu, Ta sẽ dạy các Thầy về phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng. Hãy lắng nghe và suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
2. “Này chư Tỳ khưu, con đường nào là phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng? Ở đây, này chư Tỳ khưu, vị hành giả không khởi vọng tưởng về con mắt, không khởi vọng tưởng trong con mắt, không khởi vọng tưởng từ con mắt, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Mắt này là của tôi’. Này chư Tỳ khưu, phàm vọng tưởng cái gì, vọng tưởng trong cái gì, vọng tưởng từ cái gì, vọng tưởng cái gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hữu, vì thế giới y cứ trên hữu, vì rằng thế giới tham đắm hữu.
Người ấy không khởi vọng tưởng về các hình sắc, không khởi vọng tưởng trong các hình sắc, không khởi vọng tưởng từ các hình sắc, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Các hình sắc này là của tôi’. Người ấy không khởi vọng tưởng về nhãn thức, nhãn xúc và bất kỳ cảm thọ nào phát sinh với nhãn xúc làm duyên—dù cảm thọ ấy là lạc thọ, khổ thọ, hay không lạc không khổ thọ—người ấy cũng không khởi vọng tưởng về điều đó, không khởi vọng tưởng trong điều đó, không khởi vọng tưởng từ điều đó, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Điều đó là của tôi’. Này chư Tỳ khưu, phàm vọng tưởng cái gì, vọng tưởng trong cái gì, vọng tưởng từ cái gì, vọng tưởng cái gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hữu, vì thế giới y cứ trên hữu, vì rằng thế giới tham đắm hữu.
3. “Người ấy không khởi vọng tưởng về tai, âm thanh, nhĩ thức, nhĩ xúc... Người ấy không khởi vọng tưởng về ý, các pháp, ý thức, ý xúc và bất kỳ cảm thọ nào phát sinh với ý xúc làm duyên—người ấy cũng không khởi vọng tưởng về điều đó, không khởi vọng tưởng trong điều đó, không khởi vọng tưởng từ điều đó, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Điều đó là của tôi’. Này chư Tỳ khưu, phàm vọng tưởng cái gì, vọng tưởng trong cái gì, vọng tưởng từ cái gì, vọng tưởng cái gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hữu, vì thế giới y cứ trên hữu, vì rằng thế giới tham đắm hữu.
4. “Người ấy không khởi vọng tưởng về uẩn, xứ, giới, không khởi vọng tưởng trong thứ ấy, không khởi vọng tưởng từ những thứ ấy, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Tất cả là của tôi’.
5. “Vì người ấy không khởi vọng tưởng bất kỳ điều gì như vậy, nên người ấy không bám chấp vào bất cứ điều gì trên thế gian. Không bám chấp, người ấy không dao động. Không dao động, người ấy tự mình chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.
6. “Đây, này chư Tỳ khưu, là phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng”.
Kinh Cách Tốt Để Nhổ Tận Gốc II
32. “sabbamaññitasamugghātasappāyaṃ vo, bhikkhave, paṭipadaṃ desessāmi. taṃ suṇātha. katamā ca sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasappāyā paṭipadā?
“taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, cakkhuṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“aniccaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“dukkhaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“no hetaṃ bhante”.
“rūpā ... pe ... cakkhuviññāṇaṃ... cakkhusamphasso nicco vā anicco vā”ti?
“anicco, bhante” ... pe ....
“yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“aniccaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“dukkhaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“no hetaṃ, bhante” ... pe ....
“jivhā niccā vā aniccā vā”ti?
“aniccā bhante” ... pe ....
“rasā... jivhāviññāṇaṃ... jivhāsamphasso ... pe ... yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“aniccaṃ, bhante” ... pe ... dhammā... manoviññāṇaṃ... manosamphasso nicco vā anicco vāti?
“anicco, bhante”.
“yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?
“aniccaṃ, bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?
“dukkhaṃ bhante”.
“yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?
“no hetaṃ, bhante”.
“evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, rūpesupi nibbindati, cakkhuviññāṇepi nibbindati, cakkhusamphassepi nibbindati. yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati ... pe ... jivhāyapi nibbindati, rasesupi ... pe ... yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati. manasmimpi nibbindati, dhammesupi nibbindati, manoviññāṇepi nibbindati, manosamphassepi nibbindati. yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati. nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti. ayaṃ kho sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasappāyā paṭipadā”ti. dasamaṃ.
1. “Này chư Tỳ khưu, Ta sẽ dạy các Thầy về phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng. Hãy lắng nghe và suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
2. “Này chư Tỳ khưu, con đường nào là phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng? Này chư Tỳ khưu, mắt là thường hay vô thường?”
“Bạch Đức Thế Tôn, là vô thường”.
Cái gì vô thường cái ấy là khổ hay vui?
Bạch Đức Thế Tôn, là khổ.
Cái gì vô thường, khổ, có sự biến hoại theo lẽ thường, thì nên cho vật ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.
Cảnh sắc là thường hay vô thường? … nhãn thức là thường hay vô thường?... nhãn xúc là thường hay vô thường?... cảm thọ nào phát sinh với nhãn xúc làm duyên—dù cảm thọ ấy là lạc thọ, khổ thọ, hay không lạc không khổ thọ—là thường hay vô thường? người ấy cũng không khởi vọng tưởng về điều đó, không khởi vọng tưởng trong điều đó, không khởi vọng tưởng từ điều đó, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Điều đó là của tôi’.
Tai, âm thanh, nhĩ thức, nhĩ xúc... là thường hay vô thường? …
…….
Ý, các pháp, ý thức, ý xúc và bất kỳ cảm thọ nào phát sinh với ý xúc làm duyên—là thường hay vô thường?
“Bạch Đức Thế Tôn, là vô thường”.
Cái gì vô thường cái ấy là khổ hay vui?
Bạch Đức Thế Tôn, là khổ.
Cái gì vô thường, khổ, có sự biến hoại theo lẽ thường, thì nên cho vật ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.
“Này chư Tỳ khưu, thấy được vậy vị thánh đệ tử có học hiểu sanh tâm nhàm chán đối với mắt, cảnh sắc, nhãn thức và bất cứ cảm thọ nào phát sinh với nhãn xúc làm duyên—dù cảm thọ ấy là lạc thọ, khổ thọ, hay không lạc không khổ thọ. Đối với tai… mũi… lưỡi… thân… ý, các pháp, ý thức, ý xúc và bất kỳ cảm thọ nào phát sinh với ý xúc làm duyên. Do nhàm chán vị ấy ly tham, do ly tham tâm được giải thoát. Khi tâm giải thoát vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.
6. “Đây, này chư Tỳ khưu, là phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng”.
Chú Thích
Theo Sớ Giải, cụm từ "Samugghātasappāya" được hiểu là con đường hữu ích, hỗ trợ cho việc nhổ bỏ hoàn toàn (samugghāta). Đây là phương pháp dẫn đến việc loại bỏ tận gốc mọi tư tưởng và sự bám chấp (Tato taṃ hoti aññathāti tato taṃ aññenākārena hoti).
Theo Sớ giải, mệnh đề “etaṃ mama” (“Đây là của ta”) phải được hiểu là bao gồm cả ba chấp thủ: “etaṃ mama” (“Đây là của tôi”), “eso ahamasmi” (“Đây là tôi”) và “eso me attā” (“Đây là tự ngã của tôi”) tức là ái chấp, mạn chấp và kiến chấp.
Theo Sớ Giải, thì phương cách tu tập ở đây là theo pháp quán niệm “vipassana” với ba vòng tuỳ quán (Tiparivaṭṭanayena desanā kata):
Vòng 1: Hiểu rõ bản chất vô thường, khổ và vô ngã của các pháp (anicca, dukkha, anatta).
Vòng 2: Nhận thức rằng sự chấp thủ vào chúng là nguồn gốc của khổ.
Vòng 3: Phát triển trí tuệ để đoạn trừ chấp thủ và đạt giải thoát.
Sớ Giải
31. navame samugghātasappāyāti samugghātassa upakārabhūtā. tato taṃ hoti aññathāti tato taṃ aññenākārena hoti. aññathābhāvī bhavasatto loko bhavamevābhinandatīti aññathābhāvaṃ vipariṇāmaṃ upagamanena aññathābhāvī hutvāpi bhavesu satto laggo lagito palibuddho ayaṃ loko bhavaṃyeva abhinandati. yāvatā, bhikkhave, khandhadhātuāyatananti, bhikkhave, yattakaṃ idaṃ khandhā ca dhātuyo ca āyatanāni cāti khandhadhātuāyatanaṃ. tampi na maññatīti sabbampi na maññatīti heṭṭhā gahitameva saṃkaḍḍhitvā puna dasseti. imasmiṃ sutte aṭṭhacattālīsāya ṭhānesu arahattaṃ pāpetvā vipassanā kathitā.
“Samugghātasappāyāti samugghātassa upakārabhūtā”
Ý nghĩa: "Samugghātasappāya" được hiểu là con đường hữu ích, hỗ trợ cho việc nhổ bỏ hoàn toàn (samugghāta). Đây là phương pháp dẫn đến việc loại bỏ tận gốc mọi tư tưởng và sự bám chấp.
“Tato taṃ hoti aññathāti tato taṃ aññenākārena hoti”
Ý nghĩa: "Tato taṃ hoti aññathā" nghĩa là từ đó, điều này trở nên khác đi. Sự biến đổi và thay đổi là bản chất của thế gian.
“Aññathābhāvī bhavasatto loko bhavamevābhinandatīti”
Ý nghĩa: Thế gian này, mặc dù bị chi phối bởi sự thay đổi và biến hoại (aññathābhāva), vẫn gắn bó, bám víu và khao khát các trạng thái tồn tại (bhava). Điều này phản ánh tâm lý của chúng sinh bị trói buộc bởi ái dục và sự chấp thủ.
“Yāvatā, bhikkhave, khandhadhātuāyatanaṃ”
Ý nghĩa: "Yāvatā" nghĩa là "phạm vi bao quát". Trong trường hợp này, đề cập đến toàn bộ các uẩn (khandha), các giới (dhātu) và các xứ (āyatana).
“Tampi na maññatīti sabbampi na maññatīti heṭṭhā gahitameva saṃkaḍḍhitvā puna dasseti”
Ý nghĩa: "Tampi na maññati" nghĩa là không suy nghĩ hay chấp thủ bất cứ điều gì, bao gồm cả những gì đã đề cập trước đó. Câu này được nhắc lại để làm rõ và nhấn mạnh tính toàn diện của việc buông bỏ.
“Imasmiṃ sutte aṭṭhacattālīsāya ṭhānesu arahattaṃ pāpetvā vipassanā kathitā”
Ý nghĩa: Trong bài kinh này, có 48 trường hợp (ṭhāna) được trình bày để hướng dẫn hành giả đạt đến quả vị A-la-hán (arahatta) thông qua việc thực hành thiền quán (vipassanā).
(Bài kinh tập trung vào sự biến đổi không ngừng (aññathābhāva) của các pháp, khẳng định rằng sự bám víu vào các uẩn, giới và xứ chỉ dẫn đến khổ đau. Con đường để nhổ bỏ tận gốc mọi bám chấp là không suy nghĩ và không chấp thủ bất cứ điều gì như “của tôi” hay “tôi là”. Thiền quán (vipassanā) được nhấn mạnh là phương pháp chính yếu để đạt đến giải thoát hoàn toàn và chứng đắc A-la-hán).
32. dasame etaṃ mamātiādīhi tīhi tīhi padehi taṇhāmānadiṭṭhigāhe dassetvā tiparivaṭṭanayena desanā katā. paṭipāṭiyā pana tīsupi imesu suttesu saha vipassanāya cattāropi maggā kathitāti.
“Etaṃ mamātiādīhi tīhi tīhi padehi taṇhāmānadiṭṭhigāhe dassetvā”
Cụm từ “etaṃ mama” (“Đây là của tôi”), “eso ahamasmi” (“Đây là tôi”) và “eso me attā” (“Đây là tự ngã của tôi”) đại diện cho ba loại chấp thủ: (Taṇhā: Sự tham ái; Māna: Ngã mạn (so sánh và chấp vào tự thân; Diṭṭhi: Tà kiến, sự bám víu vào quan điểm sai lầm).
Những cụm từ này được dùng để chỉ ra cách mà chúng sinh rơi vào sự chấp thủ, dẫn đến đau khổ và luân hồi.
“Tiparivaṭṭanayena desanā katā”
Giáo lý được trình bày qua ba vòng tuỳ quán (tiparivaṭṭana):
“Paṭipāṭiyā pana tīsupi imesu suttesu saha vipassanāya cattāropi maggā kathitāti”
Trong cả ba bài kinh này, bốn thánh đạo (cattāro maggā)—bao gồm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán—đều được giảng giải cùng với thiền quán (vipassanā).Điều này nhấn mạnh rằng hành giả không chỉ dừng lại ở sự nhận thức lý thuyết, mà còn phải thực hành thiền quán để phát triển trí tuệ và tiến dần qua các bậc thánh đạo.
(Bài kinh giải thích sự bám chấp vào tham ái, ngã mạn và tà kiến thông qua các cụm từ như “Đây là của tôi”, “Đây là tôi” và “Đây là tự ngã của tôi”. Giáo lý được trình bày qua ba vòng tuỳ quán, giúp hành giả hiểu rõ, đoạn trừ chấp thủ và đạt giải thoát.Thiền quán (vipassanā) và bốn thánh đạo được trình bày như con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau).
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
31.IX. Thích Hợp (2) (S.iv,23)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường?
4-6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tư lường con mắt, không tư lường trên con mắt, không tư lường từ con mắt, không tư lường: "Con mắt là của ta". Vị ấy không tư lường các sắc... không tư lường nhãn thức... không tư lường nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy là của ta". Này các Tỷ-kheo, phàm tư lường cái gì, tư lường trên cái gì, tư lường từ cái gì, tư lường cái gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hiện hữu (bhavasatto), vì thế giới dựa trên hiện hữu, vì rằng thế giới tham đắm hiện hữu...
7-8) ... Vị ấy không tư lường lưỡi, không tư lường trên lưỡi, không tư lường từ lưỡi, không tư lường: "Lưỡi là của ta". Vị ấy không tư lường các vị, không tư lường thiệt thức, không tư lường thiệt xúc. Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất lạc bất khổ; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy là của ta". Này các Tỷ-kheo, phàm tư lường cái gì, tư lường trên cái gì, tư lường từ cái gì, tư lường cái gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hiện hữu, vì thế giới dựa trên hiện hữu, vì rằng thế giới tham đắm hiện hữu.
9) ... Vị ấy không tư lường ý, không tư lường trên ý, không tư lường từ ý, không tư lường: "Ý là của ta". Vị ấy không tư lường các pháp, không tư lường ý thức, không tư lường ý xúc. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất lạc bất khổ; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy là của ta". Này các Tỷ-kheo, phàm tư lường cái gì, tư lường trên cái gì, tư lường từ cái gì, tư lường cái gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hiện hữu, vì thế giới dựa trên hiện hữu, vì rằng thế giới tham đắm hiện hữu.
10) Này các Tỷ-kheo, xa cho đến uẩn, giới, xứ, vị ấy không có tư lường pháp ấy, không tư lường trên pháp ấy, không tư lường từ pháp ấy, không tư lường: "Pháp ấy là của ta". Vị ấy không có tư lường như vậy nên không có chấp thủ một sự vật gì trong đời. Do không chấp thủ, nên không dao động (paritassati), do không dao động, vị ấy tự mình được tịch tịnh (parinibbàyati). Vị ấy tuệ tri (pajànati): "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
11) Này các Tỷ-kheo, đây là đạo lộ thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
32.X. Thích Hợp (3) (S,iv,24)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường?
4-6) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Các sắc... Nhãn thức... Nhãn xúc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
--... Tai... Các tiếng... Nhĩ thức... Nhĩ xúc...
... Mũi... Các hương... Tỷ thức... Tỷ xúc...
7-8) ... Thiệt... Các vị... Thiệt thức... Thiệt xúc...
... Thân... Các xúc... Thân thức... Thân xúc...
9) Ý là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy... đối với tai... đối với mũi... đối với với lưỡi... đối với thân... nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, nay không còn trở lui trạng thái này nữa".
11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.