Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - PHÚC QUẢ THƯỜNG SANH PHIỀN NÃO - Kinh Phạm Thiên Giới (Brahmalokasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - PHÚC QUẢ THƯỜNG SANH PHIỀN NÃO - Kinh Phạm Thiên Giới (Brahmalokasuttaṃ)

Thứ ba, 10/05/2022, 19:02 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 10.5.2022


PHÚC QUẢ THƯỜNG SANH PHIỀN NÃO

Kinh Phạm Thiên Giới (Brahmalokasuttaṃ)

CHƯƠNG VI. TƯƠNG ƯNG PHẠM THIÊN – PHẨM THỨ NHẤT (S. i, 146)

Phước báu nhân thiên là điều đáng mong mõi nhưng theo lời Phật dạy thì cũng tàng ẩn những nguy hiểm. Phước nhiều thì tâm hưởng thụ dính mắc càng nặng, vì vậy, sự hưởng thụ phóng túng càng tăng. Sống với tâm giải đãi là khởi đầu của đọa lạc. Rất khó để nhận ra điều nầy vì phúc hoạ khôn lường. Chỉ có bậc Đại giác mới chỉ rõ sự nguy hiểm giữa lạc thú trần gian. Chính vì thế giáo lý duyên khởi dạy rằng sự hiện hữu trong kiếp trầm luân là sự lẫn quẫn của nghiệp, quả, và phiền não.

Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena bhagavā divāvihāragato hoti paṭisallīno. Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā paccekaṃ dvārabāhaṃ [paccekadvārabāhaṃ (pī. ka.)] upanissāya aṭṭhaṃsu. Atha kho subrahmā paccekabrahmā suddhāvāsaṃ paccekabrahmānaṃ etadavoca – ‘‘akālo kho tāva, mārisa, bhagavantaṃ payirupāsituṃ; divāvihāragato bhagavā paṭisallīno ca. Asuko ca brahmaloko iddho ceva phīto ca, brahmā ca tatra pamādavihāraṃ viharati. Āyāma, mārisa, yena so brahmaloko tenupasaṅkamissāma; upasaṅkamitvā taṃ brahmānaṃ saṃvejeyyāmā’’ti. ‘‘Evaṃ, mārisā’’ti kho suddhāvāso paccekabrahmā subrahmuno paccekabrahmuno paccassosi.

Tại Sāvatthi.

Thuở ấy vào một buổi trưa Đức Thế Tôn đang độc cư tịnh mặc

Bấy giờ có hai Phạm thiên bích chi Subrahmā và Phạm thiên bích chi Suddhavāsa đi đến Thế Tôn. Sau khi đến mỗi vị đứng tại một cột trụ.

Rồi Phạm thiên bích chi Subrahmā nói với Phạm thiên bích chi Suddhavāsa:

-- Này Hiền giả, Đức Thế Tôn đang độc cư tịnh mặc. Nay không phải lúc thích hợp để hầu thăm Thế Tôn. Có một Phạm thiên giới phồn vinh và sung túc, tại đấy có Phạm thiên sống trong hưởng thụ. Chúng ta hãy đi đến Phạm thiên giới ấy đánh thức Phạm thiên .

-- Thưa vâng, Hiền giả.

Phạm thiên bích chi Suddhavāsa đồng thuận Phạm thiên bích chi Subrahmā.

Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā – seyyathāpi nāma balavā puriso...pe... evameva – bhagavato purato antarahitā tasmiṃ brahmaloke pāturahesuṃ. Addasā kho so brahmā te brahmāno dūratova āgacchante. Disvāna te brahmāno etadavoca – ‘‘handa kuto nu tumhe, mārisā, āgacchathā’’ti? ‘‘Āgatā kho mayaṃ, mārisa, amha tassa bhagavato santikā arahato sammāsambuddhassa. Gaccheyyāsi pana tvaṃ, mārisa, tassa bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassā’’ti?

Rồi Phạm thiên bích chi Subrahmā và Phạm thiên bích chi Suddhavāsa biến mất ở chỗ Đức Thế Tôn và hiện ra ở Phạm thiên giới nhanh như người luyện tập thể hình co duỗi cánh tay.

Vị Phạm thiên ở cảnh giới đó thấy hai Phạm thiên đi đến liền hỏi:

-- Chư hiền giả từ đâu đến?

-- Này nầy hiền giả, chúng tôi vừa đến diện kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hiền giả cũng nên đi đến hầu thăm Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.

Evaṃ vutto [evaṃ vutte (sī. syā. kaṃ.)] kho so brahmā taṃ vacanaṃ anadhivāsento sahassakkhattuṃ attānaṃ abhinimminitvā subrahmānaṃ paccekabrahmānaṃ etadavoca – ‘‘passasi me no tvaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti? ‘‘Passāmi kho tyāhaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti. ‘‘So khvāhaṃ, mārisa, evaṃmahiddhiko evaṃmahānubhāvo kassa aññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā upaṭṭhānaṃ gamissāmī’’ti?

Nghe nói vậy vi Phạm thiên kia biến hiện thành ngàn thân và hỏi Phạm thiên bích chi Subrahmā:

-- Hiền giả có thấy thần thông và uy lực của tôi chăng?

-- Tôi có thấy

-- Với thần thông và uy lực như vậy thì tôi cần gì đến hầu thăm một sa môn hay bà la môn nào nữa?

Atha kho subrahmā paccekabrahmā dvisahassakkhattuṃ attānaṃ abhinimminitvā taṃ brahmānaṃ etadavoca – ‘‘passasi me no tvaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti? ‘‘Passāmi kho tyāhaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti. ‘‘Tayā ca kho, mārisa, mayā ca sveva bhagavā mahiddhikataro ceva mahānubhāvataro ca. Gaccheyyāsi tvaṃ, mārisa, tassa bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassā’’ti?

Phạm thiên bích chi Subrahmā biến hiện thành hai ngàn thân và hỏi Phạm thiên kia:

-- Hiền giả có thấy thần thông và uy lực của tôi chăng?

-- Tôi có thấy

-- Này Hiền giả, Đức Thế Tôn có thần thông và uy lực vượt xa Hiền giả và tôi.

Atha kho so brahmā subrahmānaṃ paccekabrahmānaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Tayo supaṇṇā caturo ca haṃsā,

Byagghīnisā pañcasatā ca jhāyino;

Tayidaṃ vimānaṃ jalate ca brahme,

Obhāsayaṃ uttarassaṃ disāya’’nti.

‘‘Kiñcāpi te taṃ jalate vimānaṃ,

Obhāsayaṃ uttarassaṃ disāyaṃ;

Rūpe raṇaṃ disvā sadā pavedhitaṃ,

Tasmā na rūpe ramatī sumedho’’ti.

Rồi Phạm thiên kia nói với Phạm thiên bích chi Subrahmā bằng kệ ngôn:

Ba trăm supaṇṇā

Cùng bốn trăm haṃsā,

Năm trăm Byagghīnisā

Cung diện của thiền giả

Chói sáng cả bắc phương.

(Bích-chi Phạm thiên Subrahmā)

Dù cung điện của bạn

Chói sáng của bắc phương

Bậc Minh Triết không chuộng

Sắc biến hoại, nguy hiểm.

Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā taṃ brahmānaṃ saṃvejetvā tatthevantaradhāyiṃsu. Agamāsi ca kho so brahmā aparena samayena bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassāti.

Rồi Phạm thiên bích chi Subrahmā và Phạm thiên bích chi Suddhavāsa sau khi đánh thức tâm tư vị phạm thiên kia liền biến mất. Và Phạm thiên ấy, không lâu sau đó đi đến hầu thăm Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác.

‘‘Kiñcāpi te taṃ jalate vimānaṃ = Cung điện của người rực rỡ thì sao?

Obhāsayaṃ uttarassaṃ disāyaṃ = dù chói sáng cả phương bắc

Rūpe raṇaṃ disvā sadā pavedhitaṃ = thấy được sự nguy hiểm của sắc, luôn chao đảo

Tasmā na rūpe ramatī sumedho’’ti = Bậc Minh Tríết không thích thú đối với sắc

Thuật ngữ paccekabrahmā – phạm thiên bích chi – chỉ cho những phạm thiên độc cư, độc hành không ưa quần tụ.

Theo Sớ giải “Ba trăm supaṇṇā, Cùng bốn trăm haṃsā, Năm trăm Byagghīnisā là hoa văn hoạ tiết của cung điện phạm thiên ấy mà cũng là sự áo hoá của thiền định của vị nầy. Supaṇṇā giống như kim xí điểu, haṃsā giống như thiên nga, byagghīnisā giống như cọp. Ba loại nầy là những hoa văn hoạ tiết thường được khắc hoạ ở những đền thờ cổ tại Ấn.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

6. Brahmalokasuttaṃ [Mūla]

177. Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena bhagavā divāvihāragato hoti paṭisallīno. Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā paccekaṃ dvārabāhaṃ [paccekadvārabāhaṃ (pī. ka.)] upanissāya aṭṭhaṃsu. Atha kho subrahmā paccekabrahmā suddhāvāsaṃ paccekabrahmānaṃ etadavoca – ‘‘akālo kho tāva, mārisa, bhagavantaṃ payirupāsituṃ; divāvihāragato bhagavā paṭisallīno ca. Asuko ca brahmaloko iddho ceva phīto ca, brahmā ca tatra pamādavihāraṃ viharati. Āyāma, mārisa, yena so brahmaloko tenupasaṅkamissāma; upasaṅkamitvā taṃ brahmānaṃ saṃvejeyyāmā’’ti. ‘‘Evaṃ, mārisā’’ti kho suddhāvāso paccekabrahmā subrahmuno paccekabrahmuno paccassosi.

Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā – seyyathāpi nāma balavā puriso...pe... evameva – bhagavato purato antarahitā tasmiṃ brahmaloke pāturahesuṃ. Addasā kho so brahmā te brahmāno dūratova āgacchante. Disvāna te brahmāno etadavoca – ‘‘handa kuto nu tumhe, mārisā, āgacchathā’’ti? ‘‘Āgatā kho mayaṃ, mārisa, amha tassa bhagavato santikā arahato sammāsambuddhassa. Gaccheyyāsi pana tvaṃ, mārisa, tassa bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassā’’ti?

Evaṃ vutto [evaṃ vutte (sī. syā. kaṃ.)] kho so brahmā taṃ vacanaṃ anadhivāsento sahassakkhattuṃ attānaṃ abhinimminitvā subrahmānaṃ paccekabrahmānaṃ etadavoca – ‘‘passasi me no tvaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti? ‘‘Passāmi kho tyāhaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti. ‘‘So khvāhaṃ, mārisa, evaṃmahiddhiko evaṃmahānubhāvo kassa aññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā upaṭṭhānaṃ gamissāmī’’ti?

Atha kho subrahmā paccekabrahmā dvisahassakkhattuṃ attānaṃ abhinimminitvā taṃ brahmānaṃ etadavoca – ‘‘passasi me no tvaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti? ‘‘Passāmi kho tyāhaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāva’’nti. ‘‘Tayā ca kho, mārisa, mayā ca sveva bhagavā mahiddhikataro ceva mahānubhāvataro ca. Gaccheyyāsi tvaṃ, mārisa, tassa bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassā’’ti? Atha kho so brahmā subrahmānaṃ paccekabrahmānaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Tayo supaṇṇā caturo ca haṃsā,

Byagghīnisā pañcasatā ca jhāyino;

Tayidaṃ vimānaṃ jalate ca [jalateva (pī. ka.)] brahme,

Obhāsayaṃ uttarassaṃ disāya’’nti.

‘‘Kiñcāpi te taṃ jalate vimānaṃ,

Obhāsayaṃ uttarassaṃ disāyaṃ;

Rūpe raṇaṃ disvā sadā pavedhitaṃ,

Tasmā na rūpe ramatī sumedho’’ti.

Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā taṃ brahmānaṃ saṃvejetvā tatthevantaradhāyiṃsu. Agamāsi ca kho so brahmā aparena samayena bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassāti.

6. Brahmalokasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

177. Chaṭṭhe paccekaṃ dvārabāhanti ekeko ekekaṃ dvārabāhaṃ nissāya dvārapālā viya aṭṭhaṃsu. Iddhoti jhānasukhena samiddho. Phītoti abhiññāpupphehi supupphito. Anadhivāsentoti asahanto. Etadavocāti etesaṃ nimmitabrahmānaṃ majjhe nisinno etaṃ ‘‘passasi me’’tiādivacanaṃ avoca.

Tayo supaṇṇāti gāthāya pañcasatāti satapadaṃ rūpavasena vā pantivasena vā yojetabbaṃ. Rūpavasena tāva tayo supaṇṇāti tīṇi supaṇṇarūpasatāni. Caturo ca haṃsāti cattārihaṃsarūpasatāni. Bugghīnisā pañcasatāti byagghasadisā ekacce migā byagghīnisā nāma, tesaṃ byagghīnisārūpakānaṃ pañcasatāni, pantivasena tayo supaṇṇāti tīṇi supaṇṇapantisatāni, caturo haṃsāti cattāri haṃsapantisatāni. Byagghīnisā pañcasatāti pañca byagghīnisā pantisatāni. Jhāyinoti jhāyissa mayhaṃ vimāne ayaṃ vibhūtīti dasseti. Obhāsayanti obhāsayamānaṃ. Uttarassaṃ disāyanti taṃ kira kanakavimānaṃ tesaṃ mahābrahmānaṃ ṭhitaṭṭhānato uttaradisāyaṃ hoti. Tasmā evamāha. Ayaṃ panassa adhippāyo – evarūpe kanakavimāne vasanto ahaṃ kassa aññassa upaṭṭhānaṃ gamissāmīti. Rūpe raṇaṃ disvāti rūpamhi jātijarābhaṅgasaṅkhātaṃ dosaṃ disvā. Sadā pavedhitanti sītādīhi ca niccaṃ pavedhitaṃ calitaṃ ghaṭṭitaṃ rūpaṃ disvā. Tasmā na rūpe ramati sumedhoti yasmā rūpe raṇaṃ passati, sadā pavedhitañca rūpaṃ passati, tasmā sumedho sundarapañño so satthā rūpe na ramatīti. Chaṭṭhaṃ.

Ý kiến bạn đọc