Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | PHẠM LỖI VÀ KHÔNG THỨ LỖI ĐỀU LÀ LẦM LỖI - Kinh Phạm Lỗi (Accayasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | PHẠM LỖI VÀ KHÔNG THỨ LỖI ĐỀU LÀ LẦM LỖI - Kinh Phạm Lỗi (Accayasuttaṃ)

Thứ ba, 03/01/2023, 18:02 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 3.1.2023


PHẠM LỖI VÀ KHÔNG THỨ LỖI ĐỀU LÀ LẦM LỖI

Kinh Phạm Lỗi (Accayasuttaṃ)

CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA - PHẨM THỨ BA (S. i, 239)

Làm điều sai quấy là lầm lỗi. Biết đã làm điều sai quấy nên sám hối là điều đúng đắn. Người không chấp nhận điều đúng đắn là người sai quấy. Trong lời dạy của Đức Phật không có lỗi lầm nào, dù là trọng tội, mà không nên như pháp sám hối và đối với người như pháp sám hối thì nên như pháp chấp nhận. Không thứ lỗi dù có lời chân thành xin lỗi là một sự cố chấp sai quấy. Người có trí thật sự thấy được lầm lỗi là sai quấy và sự thứ lỗi đối với người thật lòng sám hối là điều nên làm.

Sāvatthiyaṃ...pe... ārāme. Tena kho pana samayena dve bhikkhū sampayojesuṃ. Tatreko bhikkhu accasarā. Atha kho so bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti; so bhikkhu nappaṭiggaṇhāti. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, dve bhikkhū sampayojesuṃ, tatreko bhikkhu accasarā. Atha kho so, bhante, bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti, so bhikkhu nappaṭiggaṇhātī’’ti.

Tại Jetavana (Kỳ Viên), Sāvatthi (Xá Vệ).

Lúc bấy giờ hai tỳ khưu cãi nhau. Một vị có lỗi và đã sám hối với vị kia. Nhưng tỳ khưu kia không chấp nhận.

Rồi một số tỳ khưu đi đến Đức Thế Tôn đảnh lễ và bạch rằng:

Bạch Đức Thế Tôn, có hai tỳ khưu cãi nhau. Một vị có lỗi và đã sám hối với vị kia. Nhưng tỳ khưu kia không chấp nhận.

‘‘Dveme, bhikkhave, bālā. Yo ca accayaṃ accayato na passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ nappaṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve bālā. ‘‘Dveme, bhikkhave, paṇḍitā. Yo ca accayaṃ accayato passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ paṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve paṇḍitā.

Này chư tỳ khưu, có hai hạng người thiểu trí: một là người không thấy lầm lỗi là lầm lỗi; hai là người khi người khác biết lỗi sám hối lại không chấp nhận đúng theo pháp. Đây là hai hạng người thiểu trí.

Này chư tỳ khưu, có hai hạng người thiện trí: một là người thấy lầm lỗi là lầm lỗi; hai là người khi người khác biết lỗi sám hối thì chấp nhận đúng theo pháp. Đây là hai hạng người thiện trí.

‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Kodho vo vasamāyātu, mā ca mittehi vo jarā;

Agarahiyaṃ mā garahittha, mā ca bhāsittha pesuṇaṃ;

Atha pāpajanaṃ kodho, pabbatovābhimaddatī’’ti.

Này chư Tỳ khưu, thuở Thiên chủ Sakka, khi huấn thị chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma đã nói kệ ngôn:

“Hãy nhiếp chế phẫn nộ

Đừng huỷ hoại tình thân

Không đáng trách đừng trách

Chớ nói lời bất hoà

Phẫn nộ dập người xấu

Như núi lở đá đè.

Kodho vo vasamāyātu = hãy chế ngự sự phẫn nộ

mā ca mittehi vo jarā = đừng làm hỏng sự thân thiện, hữu hảo

Agarahiyaṃ mā garahittha = Đừng chỉ trích người không có gì để chỉ trích

mā ca bhāsittha pesuṇaṃ = chớ nói lời gây chia rẽ

Atha pāpajanaṃ kodho = sự giận dữ nghiền nát kẻ sai quấy

pabbatovābhimaddatī’’ti = như núi đá đè bẹp

Theo Giới Bổn Tỳ Khưu thì khi có vị tỳ khưu sám hối lỗi lầm mà không chấp nhận là phạm tội (Vin I 54).

Theo Sớ Giải trong câu “mā ca mittehi vo jarā - đừng làm hỏng tình thân” chữ mittesu (bằng tình thân, bởi sự hữu hảo) được hiểu là định sở cách thay vì sở dụng cách theo chánh văn. (Mā ca mitte hi vo jarāti ettha hīti nipātamattaṃ, tumhākaṃ mittadhamme jarā nāma mā nibbatti). Dịch sát văn là “Đừng tàn phai bởi sự hữu hảo” nhưng dịch thoát theo Sớ giải thì là “chớ làm hư hoại trong tình thân”.

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

4. Accayasuttaṃ [Mūla]

270. Sāvatthiyaṃ...pe... ārāme. Tena kho pana samayena dve bhikkhū sampayojesuṃ. Tatreko bhikkhu accasarā. Atha kho so bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti; so bhikkhu nappaṭiggaṇhāti. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, dve bhikkhū sampayojesuṃ, tatreko bhikkhu accasarā. Atha kho so, bhante, bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti, so bhikkhu nappaṭiggaṇhātī’’ti.

‘‘Dveme, bhikkhave, bālā. Yo ca accayaṃ accayato na passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ nappaṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve bālā. ‘‘Dveme, bhikkhave, paṇḍitā. Yo ca accayaṃ accayato passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ paṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve paṇḍitā.

‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Kodho vo vasamāyātu, mā ca mittehi vo jarā;

Agarahiyaṃ mā garahittha, mā ca bhāsittha pesuṇaṃ;

Atha pāpajanaṃ kodho, pabbatovābhimaddatī’’ti.

4. Accayasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

270. Catutthe sampayojesunti kalahaṃ akaṃsu. Accasarāti atikkami, eko bhikkhu ekaṃ bhikkhuṃ atikkamma vacanaṃ avocāti attho. Yathādhammaṃ nappaṭiggaṇhātīti na khamati. Kodho vo vasamāyātūti kodho tumhākaṃ vasaṃ āgacchatu, mā tumhe kodhavasaṃ gamitthāti dīpeti. Mā ca mitte hi vo jarāti ettha ti nipātamattaṃ, tumhākaṃ mittadhamme jarā nāma mā nibbatti. Bhummatthe vā karaṇavacanaṃ, mittesu vo jarā mā nibbatti, mittabhāvato aññathābhāvo mā hotūti attho. Agarahiyaṃ mā garahitthāti agārayhaṃ khīṇāsavapuggalaṃ mā garahittha. Catutthaṃ.

Ý kiến bạn đọc