Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - NỘI MA CHẲNG CÒN XÁ GÌ NGOẠI CHƯỚNG - Kinh Uppalavaṇṇā (Uppalavaṇṇāsuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - NỘI MA CHẲNG CÒN XÁ GÌ NGOẠI CHƯỚNG - Kinh Uppalavaṇṇā (Uppalavaṇṇāsuttaṃ)

Thứ tư, 13/04/2022, 18:43 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 13.4.2022


NỘI MA CHẲNG CÒN XÁ GÌ NGOẠI CHƯỚNG

Kinh Uppalavaṇṇā (Uppalavaṇṇāsuttaṃ)

CHƯƠNG V. TƯƠNG ƯNG TỶ KHEO NI (S.i, 131)

Ác ma muốn làm chư tỳ khưu ni kinh động với những đặc điểm thường có ở nữ nhân: sự dính mắc với sắc đẹp, sự yếu đuối, sự đe doạ từ bên ngoài khi một mình nơi vắng vẻ. Với một thánh ni đã thành tựu viên mãn cả hai phương diện tâm giải thoát và tuệ giải thoát thì những điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Thánh ni Uppalavaṇṇā nói rõ những điều Ma nói thuộc ngoại giới trong lúc tận cùng nội tại đã khéo tu, khéo chứng đắc thì ma chướng bên ngoài vô nghĩa.

Sāvatthinidānaṃ.

Tại Sāvatthi.

Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā...pe... aññatarasmiṃ supupphitasālarukkhamūle aṭṭhāsi.

Vào buổi sáng tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā đắp y…..và đứng dưới gốc cây sāla trổ đầy hoa.

Atha kho māro pāpimā uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena uppalavaṇṇā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā uppalavaṇṇaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Rồi Ác ma muốn làm tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā run sợ, hốt hoảng, kinh khiếp, rời xa thiền định đã đến gần và nói lên kệ ngôn:

‘‘Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhuni,

Ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle;

Na catthi te dutiyā vaṇṇadhātu,

Bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakāna’’nti.

Sao Sư cô một mình

Dưới cội sāla nở

Với mỹ mạo vô song

Chẳng sợ sao nàng khờ?

Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti.

Tỷ khưu ni Uppalavaṇṇā tự nghĩ: "Ai đã nói lên kệ ngôn này? Người hay phi nhân?" Tỷ khưu ni Uppalavaṇṇā xét thấy: "Chính Ác ma muốn khiến ta run sợ, hốt hoảng, kinh khiếp để từ bỏ thiền định đã nói lên lời ấy".

Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi –

Tỷ khưu ni Uppalavaṇṇā biết được: "Ðấy là Ác ma", liền nói kệ ngôn:

‘‘Sataṃ sahassānipi dhuttakānaṃ, Idhāgatā tādisakā bhaveyyuṃ;

Lomaṃ na iñjāmi na santasāmi, Na māra bhāyāmi tamekikāpi.

‘‘Esā antaradhāyāmi, kucchiṃ vā pavisāmi te;

Pakhumantarikāyampi, tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi.

‘‘Cittasmiṃ vasībhūtāmhi, iddhipādā subhāvitā;

Sabbabandhanamuttāmhi, na taṃ bhāyāmi āvuso’’ti.

‘‘Trăm ngàn kẻ cám dỗ

Có tới đây như người

Không khiến ta kinh động

Xá gì một mình ngươi!

‘‘Ta có thể tàng hình

Đi tới lui trong bụng

Hay đứng giữa hàng mi

Ngươi cũng không thấy được

‘‘Với tâm đã điều phục

Khéo tu pháp thần túc

Ta thoát mọi buộc ràng

Không sợ ngươi đâu Bạn!

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ vijayā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

Ác ma biết được: "Tỷ khưu ni Uppalavaṇṇā đã biết ta” phiền muộn và thất vọng biến mất ngay chỗ ấy.

‘‘Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhuni Ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle = Hỡi tỳ khưu ni đang đứng một mình dưới cội cây sāla nở đầy hoa.

Na catthi te dutiyā vaṇṇadhātu = Nhan sắc nàng không có người thứ hai (sánh bằng)

Bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakāna’’nti = Nàng dại khờ kia chẳng sợ những kẻ sàm sở sao?

‘‘Sataṃ sahassānipi dhuttakānaṃ = Trăm ngàn kẻ trêu ghẹo

Idhāgatā tādisakā bhaveyyuṃ = Có đến đây như thế

Lomaṃ na iñjāmi na santasāmi = Không động được cọng lông hay gây hoảng sợ

Na māra bhāyāmi tamekikāpi = Nói gì một mình Ác ma có thể khiến ta sợ hãi.

‘‘Esā antaradhāyāmi = Ta có thể tàng hình

kucchiṃ vā pavisāmi te = Hay đi vào bụng ngươi

Pakhumantarikāyampi = Đứng giữa hàng mi ngươi

tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi = Ngươi cũng không thấy ta

‘‘Cittasmiṃ vasībhūtāmhi = Ta đã làm chủ tâm ý

iddhipādā subhāvitā = Khéo tu pháp thần túc

Sabbabandhanamuttāmhi = Thoát khỏi tất cả trói buộc

na taṃ bhāyāmi āvuso’’ti = Ta không sợ ngươi đâu hỡi Bạn!

Thánh ni Uppalavaṇṇā được Đức Phật xác chứng là đệ nhất thần thông trong hàng ni chúng đệ tử Phật.

Cây sāla là một loại cây thuộc họ dầu. Đức Thế Tôn đản sanh và viên tịch dưới cội sāla. Có nhiều ngộ nhận về cây nầy. Trước hết, đây không phải là cây đầu lân hay canonball tree thường được hiểu.

Cây sāla chính thống

Ở Việt Nam còn gọi cây đầu lân là cây tha la, một cách đọc trại của sāla. Nhiều bản dịch cũng ngộ nhận cây sāla với cây tāla (ta la). Cây tāla là một loại cây cọ (palm tree) thường chỉ cho cây thốt nốt (palmyra palm) với đặc tính là nếu chặt ngang thân thì sẽ không bao giờ mọc lại được. Cây nầy hoàn toàn khác với cây sāla.

Bốn thần túc - iddhipāda - là bốn pháp có hiệu năng thành tựu thiền định và thân thông gồm dục thần túc, cần thần túc, tâm thần túc, thẩm thần túc. (Đôi khi cũng dịch là bốn pháp như ý túc)

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

5. Uppalavaṇṇāsuttaṃ [Mūla]

166. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā...pe... aññatarasmiṃ supupphitasālarukkhamūle aṭṭhāsi. Atha kho māro pāpimā uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena uppalavaṇṇā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā uppalavaṇṇaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhuni,

Ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle;

Na catthi te dutiyā vaṇṇadhātu,

Bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakāna’’nti. .

Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi –

‘‘Sataṃ sahassānipi dhuttakānaṃ, Idhāgatā tādisakā bhaveyyuṃ;

Lomaṃ na iñjāmi na santasāmi, Na māra bhāyāmi tamekikāpi.

‘‘Esā antaradhāyāmi, kucchiṃ vā pavisāmi te;

Pakhumantarikāyampi, tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi.

‘‘Cittasmiṃ vasībhūtāmhi, iddhipādā subhāvitā;

Sabbabandhanamuttāmhi, na taṃ bhāyāmi āvuso’’ti.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ uppalavaṇṇā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

5. Uppalavaṇṇāsuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

166. Pañcame supupphitagganti aggato paṭṭhāya suṭṭhu pupphitaṃ sālarukkhaṃ. Na catthi te dutiyā vaṇṇadhātūti tava vaṇṇadhātusadisā dutiyā vaṇṇadhātu natthi, tayā sadisā aññā bhikkhunī natthīti vadati. Idhāgatā tādisikā bhaveyyunti yathā tvaṃ idhāgatā kiñci santhavaṃ vā sinehaṃ vā na labhasi, evamevaṃ tepi tayāva sadisā bhaveyyuṃ. Pakhumantarikāyanti dvinnaṃ akkhīnaṃ majjhe nāsavaṃsepi tiṭṭhantiṃ maṃ na passasi. Vasībhūtamhīti vasībhūtā asmi. Pañcamaṃ.

Ý kiến bạn đọc