- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bāi học ngāy 22.10.2024
NỘI GIỚI KHÔNG GIỮ NGUYÊN TRẠNG NÓI GÌ NGOẠI GIỚI
KINH MẮT (CAKKHUSUTTA)
Tập III – Uẩn
Chương IV. Tương Ưng Thể Nhập – Phẩm Con Mắt (S,iii,282)
Trong sự nhận thức, cũng như chấp thủ, phàm tâm thường có sự khác biệt giữa chủ thể và khách thể. Cái mình bám chấp có thể vô thường biến đổi, nhưng tự thân thì muôn đời vẫn thế. Thực tế thì dù là chủ thể hay khách thể đều hằng chuyển. Cảnh vô thường và các căn cũng vô thường. Nếu nghĩ rằng chỉ có thế giới ngoại tại là biến dịch còn tự thân là bất biến, thì giống như câu chuyện người đi trên sông đánh rơi thanh kiếm báu rồi đánh dấu mạn thuyền để biết chỗ dò tìm. Thực tế thì nước chảy, thuyền trôi. Mọi thứ dịch chuyển. Sự vô thường biến đổi có thể lãnh hội được bởi cả hai niềm tin và trí tuệ. Ai thấy được trạng huống sanh diệt người ấy bước vào cảnh giới giải thoát.
Kinh văn
302. sāvatthinidānaṃ. “cakkhuṃ, bhikkhave, aniccaṃ vipariṇāmi aññathābhāvi; sotaṃ aniccaṃ vipariṇāmi aññathābhāvi; ghānaṃ aniccaṃ vipariṇāmi aññathābhāvi; jivhā aniccā vipariṇāmī aññathābhāvī {vipariṇāminī aññathābhāvinī (?)}; kāyo anicco vipariṇāmī aññathābhāvī; mano anicco vipariṇāmī aññathābhāvī. yo, bhikkhave, ime dhamme evaṃ saddahati adhimuccati — ayaṃ vuccati saddhānusārī, okkanto sammattaniyāmaṃ, sappurisabhūmiṃ okkanto, vītivatto puthujjanabhūmiṃ; abhabbo taṃ kammaṃ kātuṃ, yaṃ kammaṃ katvā nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā pettivisayaṃ vā upapajjeyya; abhabbo ca {abhabbova (sī. syā. kaṃ.)} tāva kālaṃ kātuṃ yāva na sotāpattiphalaṃ sacchikaroti”.
“yassa kho, bhikkhave, ime dhammā evaṃ paññāya mattaso nijjhānaṃ khamanti, ayaṃ vuccati — ‘dhammānusārī, okkanto sammattaniyāmaṃ, sappurisabhūmiṃ okkanto, vītivatto puthujjanabhūmiṃ; abhabbo taṃ kammaṃ kātuṃ, yaṃ kammaṃ katvā nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā pettivisayaṃ vā upapajjeyya; abhabbo ca tāva kālaṃ kātuṃ yāva na sotāpattiphalaṃ sacchikaroti’. yo, bhikkhave, ime dhamme evaṃ pajānāti evaṃ passati, ayaṃ vuccati — ‘sotāpanno avinipātadhammo niyato sambodhiparāyano’”ti. paṭhamaṃ.
Nhân duyên tại Sāvatthi...
Này chư Tỳ khưu, mắt là vô thường, biến đổi, trở thành sai khác. Tai là vô thường, biến đổi, trở thành sai khác. Mũi là vô thường, biến đổi, trở thành sai khác. Lưỡi là vô thường, biến đổi, trở thành sai khác. Thân là vô thường, biến đổi, trở thành sai khác. Ý là vô thường, biến đổi, trở thành sai khác.
Này chư Tỳ khưu, ai có lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi là bậc tùy tín hành, đã thể nhập chánh tánh, đã thể nhập chân nhân địa, đã vượt khỏi cảnh giới phàm phu. Vị ấy không có thể làm những hành động gì mà vì lý do ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; vị ấy không thể mệnh chung mà không chứng quả nhập lưu.
Này chư Tỳ khưu, ai chấp nhận giáo pháp này sau khi đã suy xét thấu đáo với trí tuệ, vị ấy được gọi là tùy pháp hành, đã thể nhập chánh tánh, đã thể nhập chân nhân địa, đã vượt khỏi cảnh giới phàm phu. Vị ấy không có thể làm những hành động gì mà vì lý do ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; vị ấy không thể mệnh chung mà không chứng quả nhập lưu.
Này chư Tỳ khưu, đối với những pháp này, biết rõ như vậy, thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng quả nhập lưu, không còn bị thối đọa, hành trình đã định hướng và giác ngộ là điểm đến.
Chú Thích
Bậc tùy tín hành (saddhānusārī) và bậc tuỳ pháp hành (dhammānusārī), được mô tả ngay bên dưới, là hai hạng đệ tử đang thực hành để chứng đắc quả vị Nhập Lưu. Hai hạng này thuộc về cấp bậc thấp nhất trong hệ thống phân loại bảy thánh đệ tử, được định nghĩa chính thức tại MN I 477-79. Bảy loại này cũng được định nghĩa, với sự khác biệt nhất định, tại Pp 14-15 (§§30-36) và tại Vism 659-60 (Ppn 21:74-78). Bậc tùy tín hành và bậc tuỳ pháp hành cũng được phân biệt tại 55:24 (V 377,8-24) và 55:25 (V 379,10-21), mặc dù các thuật ngữ đó không được sử dụng trực tiếp.
Bậc tùy tín hành và bậc tuỳ pháp hành khác biệt ở cơ địa (ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ). Bậc tuỳ tín hành dựa vào niềm tin làm phương tiện tiến bộ, trong khi bậc tuỳ pháp hành dựa vào trí tuệ. Khi họ chứng đắc quả vị nhập Lưu, người theo tín tâm trở thành "bậc tín giải (saddhāvimutti)” xem MN I 478,29-34), còn bậc tùy pháp hành trở thành "kiến đắc (diṭṭhippatta)”; xem MN I 478,18-23).
Theo Sớ Giải, "chánh tánh" (sammattaniyāma) là thánh đạo (ariyamagga). Về câu "vị ấy không thể mệnh chung mà không chứng quả nhập lưu," có nghĩa là khi “đạo đã khởi lên, không có gì ngăn cản được quả”. Và "Nếu người này đang thực hành để chứng đắc quả vị nhập lưu và nếu đây là lúc kiếp sắp kết thúc, kiếp sẽ không kết thúc cho đến khi người đó chứng đắc quả vị nhập Lưu."
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.
Dưới đây là bản Việt dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu
I. Con Mắt (S.iii,225)
1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, mắt là vô thường, biến hoại, đổi khác. Tai là vô thường, biến hoại, đổi khác. Mũi là vô thường, biến hoại, đổi khác. Lưỡi là vô thường, biến hoại, đổi khác. Thân là vô thường, biến hoại, đổi khác. Ý là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4) -- Này các Tỷ-kheo, ai có lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5) Với ai, này các Tỷ-kheo, kham nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6) Với ai, này các Tỷ-kheo, đối với những pháp này, biết rõ như vậy, thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến giác ngộ.
Sớ Giải Kinh cakkhusutta
302-311. okkantasaṃyutte adhimuccatīti saddhādhimokkhaṃ paṭilabhati. okkanto sammattaniyāmanti paviṭṭho ariyamaggaṃ. abhabbo ca tāva kālaṃ kātunti iminā uppanne magge phalassa anantarāyataṃ dīpeti. uppannasmiñhi magge phalassa antarāyakaraṇaṃ nāma natthi. tenevāha — “ayañca puggalo sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno assa, kappassa ca uḍḍayhanavelā assa, neva tāva kappo uḍḍayheyya, yāvāyaṃ puggalo na sotāpattiphalaṃ sacchikaroti, ayaṃ vuccati puggalo ṭhitakappī”ti (pu. pa. 17). mattaso nijjhānaṃ khamantīti pamāṇato olokanaṃ khamanti. sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
302-311. Trong Phẩm Tương Ưng Thể Nhập (Okkantasaṃyutta), "adhimuccatīti" nghĩa là đạt được quyết tâm do niềm tin (saddhādhimokkha). "Okkanto sammattaniyāmanti" có nghĩa là đã bước vào con đường thánh (ariyamagga). "Abhabbo ca tāva kālaṃ kātunti" có nghĩa là chỉ ra rằng khi con đường đã khởi lên, sẽ không còn bất kỳ chướng ngại nào ngăn cản quả vị nữa. Khi con đường (magga) đã khởi lên, không có điều gì có thể ngăn cản sự chứng đắc của quả (phala). Do đó, câu nói rằng: "Nếu người này đang thực hành để chứng đắc quả vị Nhập Lưu và nếu đó là lúc kiếp (kappa) đang ở giai đoạn sắp kết thúc, thì kiếp sẽ không kết thúc cho đến khi người đó chứng đắc quả vị Nhập Lưu. Người này được gọi là 'ṭhitakappī' (người đứng vững trong kiếp)" (pu. pa. 17).
"Câu 'mattaso nijjhānaṃ khamanti' nghĩa là sự suy xét vừa đủ về mặt trí tuệ được chấp nhận một cách phù hợp." Những phần còn lại đều dễ hiểu.