Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || NHỔ CỎ DẠI TẬN GỐC - Kinh Cách Tốt Để Đoạn Trừ (samugghātasāruppasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || NHỔ CỎ DẠI TẬN GỐC - Kinh Cách Tốt Để Đoạn Trừ (samugghātasāruppasuttaṃ)

Chủ nhật, 26/01/2025, 04:13 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngà9 y 18.1.2025

NHỔ CỎ DẠI TẬN GỐC

Kinh Cách Tốt Để Đoạn Trừ (samugghātasāruppasuttaṃ)

Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Tất Cả (SN.35.30)

Người đời có câu “Oan có đầu, nợ có chủ”. Trong Phật Pháp, đau khổ có nguồn gốc. Nguyên nhân đó là vọng tưởng hay ảo giác về thực tại. Thực tại ở đây là sáu nội xứ và sáu ngoại xứ. Vọng tưởng là ái chấp, mạn chấp và kiến chấp. Khi đi sâu vào từng phần sẽ không có thái độ “quơ đũa cả nắm” để rồi “thấy con rắn tưởng sợi dây”. Cảnh giới của chánh niệm là quán chiếu thực tại trong nhận diện sơ khởi nhất chứ không thêm thắt. Càng suy diễn càng đi xa. Càng bớt vọng tưởng càng ít khổ đau.

Kinh văn

30. “sabbamaññitasamugghātasāruppaṃ vo, bhikkhave, paṭipadaṃ desessāmi. taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha; bhāsissāmīti. katamā ca sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasāruppā paṭipadā? idha, bhikkhave, bhikkhu cakkhuṃ na maññati, cakkhusmiṃ na maññati, cakkhuto na maññati, cakkhuṃ meti na maññati. rūpe na maññati, rūpesu na maññati, rūpato na maññati, rūpā meti na maññati. cakkhuviññāṇaṃ na maññati, cakkhuviññāṇasmiṃ na maññati, cakkhuviññāṇato na maññati, cakkhuviññāṇaṃ meti na maññati. cakkhusamphassaṃ na maññati, cakkhusamphassasmiṃ na maññati, cakkhusamphassato na maññati, cakkhusamphasso meti na maññati. yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi na maññati, tasmimpi na maññati, tatopi na maññati, taṃ meti na maññati ... pe ... jivhaṃ na maññati, jivhāya na maññati, jivhāto na maññati, jivhā meti na maññati. rase na maññati, rasesu na maññati, rasato na maññati, rasā meti na maññati. jivhāviññāṇaṃ na maññati, jivhāviññāṇasmiṃ na maññati, jivhāviññāṇato na maññati, jivhāviññāṇaṃ meti na maññati. jivhāsamphassaṃ na maññati, jivhāsamphassasmiṃ na maññati, jivhāsamphassato na maññati, jivhāsamphasso meti na maññati. yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi na maññati, tasmimpi na maññati, tatopi na maññati, taṃ meti na maññati ... pe ... manaṃ na maññati, manasmiṃ na maññati, manato na maññati, mano meti na maññati. dhamme na maññati, dhammesu na maññati, dhammato na maññati, dhammā meti na maññati. manoviññāṇaṃ na maññati, manoviññāṇasmiṃ na maññati, manoviññāṇato na maññati, manoviññāṇaṃ meti na maññati. manosamphassaṃ na maññati, manosamphassasmiṃ na maññati, manosamphassato na maññati, manosamphasso meti na maññati. yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi na maññati, tasmimpi na maññati, tatopi na maññati, taṃ meti na maññati. sabbaṃ na maññati, sabbasmiṃ na maññati, sabbato na maññati, sabbaṃ meti na maññati. so evaṃ amaññamāno na ca kiñci loke upādiyati. anupādiyaṃ na paritassati. aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti. ayaṃ kho sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasāruppā paṭipadā”ti. aṭṭhamaṃ.

1. “Này chư Tỳ khưu, Ta sẽ dạy các Thầy về phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng. Hãy lắng nghe và suy nghiệm, Ta sẽ giảng.

2. “Này chư Tỳ khưu, con đường nào là phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng? Ở đây, này chư Tỳ khưu, vị hàmh giả không khởi vọng tưởng về con mắt, không khởi vọng tưởng trong con mắt, không khởi vọng tưởng từ con mắt, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Mắt này là của tôi’.

Người ấy không khởi vọng tưởng về các hình sắc, không khởi vọng tưởng trong các hình sắc, không khởi vọng tưởng từ các hình sắc, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Các hình sắc này là của tôi’. Người ấy không khởi vọng tưởng về nhãn thức, nhãn xúc và bất kỳ cảm thọ nào phát sinh với nhãn xúc làm duyên—dù cảm thọ ấy là lạc thọ, khổ thọ, hay không lạc không khổ thọ—người ấy cũng không khởi vọng tưởng về điều đó, không khởi vọng tưởng trong điều đó, không khởi vọng tưởng từ điều đó, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Điều đó là của tôi’.

3. “Người ấy không khởi vọng tưởng về tai, âm thanh, nhĩ thức, nhĩ xúc... Người ấy không khởi vọng tưởng về ý, các pháp, ý thức, ý xúc và bất kỳ cảm thọ nào phát sinh với ý xúc làm duyên—người ấy cũng không khởi vọng tưởng về điều đó, không khởi vọng tưởng trong điều đó, không khởi vọng tưởng từ điều đó, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Điều đó là của tôi’.

4. “Người ấy không khởi vọng tưởng về tất cả, không khởi vọng tưởng trong tất cả, không khởi vọng tưởng từ tất cả, không khởi vọng tưởng rằng: ‘Tất cả là của tôi’.

5. “Vì người ấy không khởi vọng tưởng bất kỳ điều gì như vậy, nên người ấy không bám chấp vào bất cứ điều gì trên thế gian. Không bám chấp, người ấy không dao động. Không dao động, người ấy tự mình chứng đạt Niết-bàn. Người ấy hiểu rằng: ‘Sanh đã bị tiêu diệt, phạm hạnh đã được thành tựu, những gì cần làm đã làm xong, không còn trạng thái hiện hữu nào nữa’.

6. “Đây, này chư Tỳ khưu, là phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng.”

Chú Thích

 

Phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng (sabbamaññitasamugghātasāruppaṃ paṭipadā): “vọng tưởng” (maññanā) là quá trình suy nghĩ bị méo mó do sự chi phối của tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna) và tà kiến (diṭṭhi). Những khái niệm phát sinh từ các dạng suy nghĩ này cũng được gọi là “các vọng tưởng” (maññita - quá khứ phân từ của maññanā). Chúng bao gồm các ý niệm như “Tôi là”, “Tôi là như vầy” và tất cả những khái niệm khác bắt nguồn từ những sai lầm gốc rễ này. Những vọng tưởng này được đề cập chi tiết trong Kinh Mūlapariyāya (Kinh Căn Bản Pháp Môn, MN 1). Mô hình bốn vọng tưởng cũng là nền tảng trong Kinh Mūlapariyāya, mặc dù trong kinh này, mô hình không được áp dụng rõ ràng vào các căn xứ.

Bản Sớ Giải chú thích:

 
Cakkhuṃ na maññati (không vọng tưởng về con mắt): Người ấy không khởi tưởng rằng con mắt là “tôi”, là “của tôi”, là “người khác”, hay là “thuộc về người khác”.

Cakkhusmiṃ na maññati (không khởi tưởng trong con mắt): Người ấy không khởi tưởng rằng: “Tôi ở trong con mắt”, “Có sự ràng buộc của tôi trong con mắt”, “Người khác ở trong con mắt”, hay “Có sự ràng buộc của người khác trong con mắt”.

Cakkhuto na maññati (không khởi tưởng từ con mắt): Người ấy không khởi tưởng rằng: “Tôi xuất phát từ con mắt”, “Có sự ràng buộc của tôi xuất phát từ con mắt”, “Người khác xuất phát từ con mắt”, hay “Có sự ràng buộc của người khác xuất phát từ con mắt”.

Người ấy không khởi lên bất kỳ sự tưởng nào thuộc về tham ái, ngã mạn, hoặc tà kiến.

Sớ Giải và Hậu Sớ Giải của bài kinh này nói về tuệ quán dẫn đến quả vị vô sanh a la hán được trình bày trong 44 trường hợp:

Trong nhãn môn có bảy phương diện: con mắt, cảnh sắc, nhãn thức, nhãn xúc và các cảm thọ lạc thọ (pleasant), khổ thọ (painful) và xả thọ (neutral). Tương tự như vậy ở năm cửa còn lại (tai, mũi, lưỡi, thân, ý), tổng cộng là 42 trường hợp. Đoạn về “không khởi tưởng về tất cả” làm thành trường hợp thứ 43 và cụm từ “người ấy không bám chấp vào bất kỳ điều gì trên thế gian” tạo thành trường hợp thứ 44.

(Trong bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu có đoạn cuối: “Cho đến các uẩn, giới, xứ, này các Tỷ-kheo, vị ấy không tư lường pháp ấy, không tư lường trên pháp ấy, không tư lường từ pháp ấy, không tư lường: "Pháp ấy là của ta" không tìm thấy trong nguyên văn Pāli)

Sớ Giải

30. aṭṭhame sabbamaññitasamugghātasāruppanti sabbesaṃ taṇhāmānadiṭṭhimaññitānaṃ samugghātāya anucchavikaṃ. idhāti imasmiṃ sāsane. cakkhuṃ na maññatīti cakkhuṃ ahanti vā mamanti vā paroti vā parassāti vā na maññati. cakkhusmiṃ na maññatīti ahaṃ cakkhusmiṃ, mama kiñcanapalibodho cakkhusmiṃ paro cakkhusmiṃ, parassa kiñcanapalibodho cakkhusminti na maññati. cakkhuto na maññatīti ahaṃ cakkhuto niggato, mama kiñcanapalibodho cakkhuto niggato, paro cakkhuto niggato, parassa kiñcanapalibodho cakkhuto niggatoti evampi na maññati, taṇhāmānadiṭṭhimaññanānaṃ ekampi na uppādetīti attho. cakkhuṃ meti na maññatīti mama cakkhūti na maññati, mamattabhūtaṃ taṇhāmaññanaṃ na uppādetīti attho. sesaṃ uttānamevāti. imasmiṃ sutte catucattālīsāya ṭhānesu arahattaṃ pāpetvā vipassanā kathitā.

30. Trong bài kinh thứ tám (aṭṭhame), "phương cách tốt để nhổ tận gốc mọi vọng tưởng" (sabbamaññitasamugghātasāruppaṃ) nghĩa là thích hợp để nhổ tận gốc tất cả các sự tưởng về tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna) và tà kiến (diṭṭhi).

Idhāti imasmiṃ sāsane: "Ở đây" nghĩa là trong giáo pháp này.

Cakkhuṃ na maññatīti: Không khởi tưởng về con mắt, nghĩa là không xem con mắt như "tôi" (ahaṃ), "của tôi" (mama), "người khác" (paro), hay "thuộc về người khác" (parassa).

Cakkhusmiṃ na maññatīti: Không khởi tưởng rằng: "Tôi ở trong con mắt", "Có sự ràng buộc của tôi trong con mắt", "Người khác ở trong con mắt", hay "Có sự ràng buộc của người khác trong con mắt".

Cakkhuto na maññatīti: Không khởi tưởng rằng: "Tôi xuất phát từ con mắt", "Có sự ràng buộc của tôi xuất phát từ con mắt", "Người khác xuất phát từ con mắt", hay "Có sự ràng buộc của người khác xuất phát từ con mắt".

Ý nghĩa là: Không khởi lên bất kỳ sự tưởng nào thuộc về tham ái, ngã mạn, hay tà kiến liên quan đến con mắt.

Cakkhuṃ meti na maññatīti: Không khởi tưởng rằng: "Con mắt là của tôi" nghĩa là không khởi lên sự tưởng về sở hữu (mama), vốn là một dạng tưởng phát sinh từ tham ái.

Sesaṃ uttānamevāti: Các phần còn lại đã được giải thích rõ ràng.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.

30.VIII Thích Hợp (1) (Sàruppa) (S.iv,21)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường (sabbamannità). Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường?

4-6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tư lường con mắt, không tư lường trên con mắt, không tư lường từ con mắt, không tư lường: "Con mắt là của ta". Vị ấy không tư lường các sắc, không tư lường trên các sắc, không tư lường từ các sắc, không tư lường: "Các sắc là của ta". Vị ấy không tư lường nhãn thức, không tư lường trên nhãn thức, không tư lường từ nhãn thức, không tư lường: "Nhãn thức là của ta". Vị ấy không tư lường nhãn xúc, không tư lường trên nhãn xúc, không tư lường từ nhãn xúc, không tư lường: "Nhãn xúc là của ta". Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy của ta".... Tai... Mũi...

7-8) ... Vị ấy không tư lường lưỡi, không tư lường trên lưỡi, không tư lường từ lưỡi, không tư lường: "Lưỡi là của ta". Vị ấy không tư lường các vị, không tư lường trên các vị, không tư lường từ các vị, không tư lường: "Các vị là của ta". Vị ấy không tư lường thiệt thức, không tư lường trên thiệt thức, không tư lường từ thiệt thức, không tư lường: "Thiệt thức là của ta". Vị ấy không tư lường thiệt xúc, không tư lường trên thiệt xúc, không tư lường từ thiệt xúc, không tư lường: "Thiệt xúc là của ta". Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy là của ta".

9) ... Vị ấy không tư lường ý, không tư lường trên ý, không tư lường từ ý, không tư lường: "Ý là của ta". Vị ấy không tư lường các pháp, không tư lường trên các pháp, không tư lường từ các pháp, không tư lường: "Các pháp là của ta". Vị ấy không tư lường ý thức, không tư lường trên ý thức, không tư lường từ ý thức, không tư lường: "Ý thức là của ta". Vị ấy không tư lường ý xúc, không tư lường trên ý xúc, không tư lường từ ý xúc, không tư lường: "Ý xúc là của ta". Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy là của ta". Này các Tỷ-kheo, tư lường cái gì, tư lường trên cái gì, tư lường từ cái gì, tư lường cái gì là của ta, từ đấy cái ấy bị đổi khác. Ý tựa trên đổi khác, bám víu vào tái sanh, thế giới ưa thích tái sanh.

10) Cho đến các uẩn, giới, xứ, này các Tỷ-kheo, vị ấy không tư lường pháp ấy, không tư lường trên pháp ấy, không tư lường từ pháp ấy, không tư lường: "Pháp ấy là của ta". Vị ấy không tư lường như vậy nên không chấp thủ một vật gì ở đời. Do không chấp thủ nên không ái luyến. Do không ái luyến nên tự mình được hoàn toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.

Ý kiến bạn đọc