Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | NGƯỜI CAO ĐẸP HƠN CẢNH ĐẸP - Kinh Khả Ái (Rāmaṇeyyakasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | NGƯỜI CAO ĐẸP HƠN CẢNH ĐẸP - Kinh Khả Ái (Rāmaṇeyyakasuttaṃ)

Thứ bảy, 10/12/2022, 18:48 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 10.12.2022

 


NGƯỜI CAO ĐẸP HƠN CẢNH ĐẸP

Kinh Khả Ái (Rāmaṇeyyakasuttaṃ)

CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA - PHẨM THỨ HAI (S. i, 232)

Nói đến cảnh đẹp người ta thường nghĩ tới những nơi có sơn thuỷ hữu tình hoặc những công trình nguy nga tráng lệ. Đức Phật cho chúng ta cái nhìn khác: ở bất cứ nơi nào có các bậc hoàn toàn giác ngộ giải thoát đó là nơi khả ái khả lạc. Nhân gian có câu “phú tại sơn lâm hữu khách tầm” muốn ám chỉ mãnh lực của đồng tiền. Nhưng với người có trình độ hiểu Pháp thì những bậc với pháp nhãn thanh tịnh vô cấu dù ở thâm sâu cùng cố nơi đó vẫn đáng lui tới.

Sāvatthiyaṃ jetavane. Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bhante, bhūmirāmaṇeyyaka’’nti?

Tại Jetavana (Kỳ Viên), Sāvatthi (Xá Vệ)

Bấy giờ Thiên chủ Sakka đi đến Đức Thế Tôn đảnh lễ và đứng một bên.

Thiên chủ Sakka bạch với Đức Thế Tôn:

-- Bạch Đức Thế Tôn, nơi chốn nào khả ái?

(Thế Tôn):

‘‘Ārāmacetyā vanacetyā, pokkharañño sunimmitā;

Manussarāmaṇeyyassa, kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ.

‘‘Gāme vā yadi vāraññe, ninne vā yadi vā thale;

Yattha arahanto viharanti, taṃ bhūmirāmaṇeyyaka’’nti.

“Đền tháp chùa hay rừng

Liên trì khéo kiến tạo

Không bằng một phần nhỏ

So với người khả ái.

“Dù trong làng hay rừng

Thung lũng hay cao nguyên

Chỗ nào La Hán trú

Chỗ ấy thật khả ái.

‘‘Ārāmacetyā vanacetyā = đền tháp trong chùa hay trong rừng

pokkharañño sunimmitā = hồ sen khéo kiến tạo

Manussarāmaṇeyyassa kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ = không bằng một phần mười sáu con người khả ái khả lạc

‘‘Gāme vā yadi vāraññe = dù trong trong làng hay trong rừng

ninne vā yadi vā thale = dù thung lũng hay đồi cao

Yattha arahanto viharanti = chỗ nào các bậc a la hán trú ngụ

taṃ bhūmirāmaṇeyyakan’ti = chỗ ấy là nơi khả ái khả lạc

Thiên chủ hỏi Đức Phật về bhūmirāmaṇeyyaka (cảnh nào khả ái) muốn hỏi về nơi chốn cao đẹp trong đánh giá của một bậc Đại Giác. Câu trả lời của Đức Phật dùng chữ manussarāmaṇeyya (người khả ái) mang hai ý nghĩa: Nơi nào chư vị Ứng cúng a la hán trú ngụ đó là nơi khả ái vì thanh tịnh và lợi lạc cho chúng sanh. Ở đây cũng có nghĩa là tâm giải thoát đẹp hơn cảnh khéo kiến tạo.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

5. Rāmaṇeyyakasuttaṃ [Mūla]

261. Sāvatthiyaṃ jetavane. Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bhante, bhūmirāmaṇeyyaka’’nti?

‘‘Ārāmacetyā vanacetyā, pokkharañño sunimmitā;

Manussarāmaṇeyyassa, kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ.

‘‘Gāme vā yadi vāraññe, ninne vā yadi vā thale;

Yattha arahanto viharanti, taṃ bhūmirāmaṇeyyaka’’nti.

5. Rāmaṇeyyakasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

261. Pañcame ārāmacetyāti ārāmacetiyāni. Vanacetyāti vanacetiyāni. Ubhayatthāpi cittīkataṭṭhena cetyaṃ veditabbaṃ. Manussarāmaṇeyyassāti manussaramaṇīyabhāvassa. Idāni manussaramaṇīyakavasena bhūmiramaṇīyakaṃ dassento gāme vātiādimāha. Pañcamaṃ.

Ý kiến bạn đọc