- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 28.5.2025
NẮM BẮT ĐỐI TƯỢNG CHỦ CHỐT
Kinh Người Thành Tựu Các Căn (indriyasampannasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Mới Và Cũ (SN.35.154)
Tâm lý là thế giới vô cùng phức tạp. Hành giả tu tập cần nắm rõ những mấu chốt chính để có thái độ tương thích. Sáu giác quan là những đầu não không thể không biết tới. Trong lúc năm tố chất nội tại là tín, tấn, niệm, định, tuệ là những cơ sở để tạo nên tâm lực. Như một vị tướng cầm quân hiểu rõ vũ khí trang bị và địa bàn hoạt động sẽ dễ dàng chiến thắng, người tu tập biết rõ lục căn và ngũ quyền được xem là có căn bản đáng kể.
KINH VĂN
154. atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami ... pe ... ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca — “‘indriyasampanno, indriyasampanno’ti, bhante, vuccati. kittāvatā nu kho, bhante, indriyasampanno hotī”ti?
“cakkhundriye ce, bhikkhu, udayabbayānupassī viharanto cakkhundriye nibbindati ... pe ... jivhindriye ce, bhikkhu, udayabbayānupassī viharanto jivhindriye nibbindati ... pe ... manindriye ce, bhikkhu, udayabbayānupassī viharanto manindriye nibbindati. nibbindaṃ virajjati ... pe ... vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti. ettāvatā kho, bhikkhu, indriyasampanno hotī”ti. navamaṃ.
154. Rồi một vị Tỳ khưu đi đến Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Vị ấy thưa với Đức Thế Tôn:
“Bạch Thế Tôn, người ta thường nói: ‘Thành tựu các căn, thành tựu các căn.’ Bạch Thế Tôn, như thế nào là một người thành tựu các căn?”
[Đức Phật dạy:]
“Này Tỳ khưu, nếu một người khi đang an trú quán sát sự sinh và diệt nơi nhãn căn (con mắt), vị ấy sanh tâm nhàm chán đối với nhãn căn, nếu đang an trú quán sát sự sinh và diệt nơi nhĩ căn, vị ấy sanh tâm nhàm chán đối với nhĩ căn… nếu đang an trú quán sát sự sinh và diệt nơi ý căn, vị ấy sanh tâm nhàm chán đối với ý căn.
Khi đã nhàm chán, vị ấy ly tham; khi đã ly tham, vị ấy được giải thoát. Khi tâm đã được giải thoát, khởi lên chánh trí: ‘Tâm đã được giải thoát.’ Vị ấy hiểu rõ: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái hiện hữu này nữa.’
Này Tỳ khưu, đó là cách một người được gọi là thành tựu các căn.”
CHÚ THÍCH
Chữ indriya là một thuật ngữ quan trọng trong Phật giáo, có nghĩa là năng lực, quyền lực hay chủ quyền. Từ này bắt nguồn từ chữ "Inda" (tức là Indra - thiên chủ trong Ấn Độ giáo) và hậu tố -iya, mang ý nghĩa "thuộc về quyền lực của Indra". Do đó, indriya có nghĩa là những gì có tính lãnh đạo, chi phối, điều khiển. Trong Phật học Hán Việt chữ indriya thường dịch là căn hay quyền.
Trong kinh điển, indriya được chia thành nhiều nhóm tùy theo ngữ cảnh:
A. Lục căn
Những căn này là “năng lực” giúp tiếp nhận các đối tượng qua giác quan.
B. Ngũ quyền (pañca indriyāni/bala)
Đây là năm năng lực tinh thần trong sự tu tập chỉ hay quán:
Đây là các năng lực nội tại của hành giả.
C. 22 quyền
Là danh sách đầy đủ gồm 22 loại căn, bao gồm:
Chữ thành tựu (sampanna) ở đây, theo Sớ giải, mang hai khái niệm riêng biệt:
SỚ GIẢI
154-155. navame indriyasampannoti paripuṇṇindriyo. tattha yena cha indriyāni sammasitvā arahattaṃ pattaṃ, so tehi nibbisevanehi indriyehi samannāgatattā, cakkhādīni vā cha indriyāni sammasantassa uppannehi saddhādīhi indriyehi samannāgatattā paripuṇṇindriyo nāma hoti, taṃ sandhāya bhagavā cakkhundriye cetiādinā nayena desanaṃ vitthāretvā ettāvatā kho bhikkhu indriyasampanno hotīti āha. dasamaṃ heṭṭhā vuttanayamevāti.
154–155. Chú thích bài kinh số 9: "Người thành tựu các căn" (Indriyasampanno)
"Navame indriyasampannoti paripuṇṇindriyo" – Trong bài kinh thứ chín (Navama Sutta), “người thành tựu các căn” (indriyasampanno) có nghĩa là người có các căn được viên mãn (paripuṇṇa-indriyo).
Tattha yena cha indriyāni sammasitvā arahattaṃ pattaṃ – Ở đây, người quán sát đúng đắn sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và chứng đạt quả A-la-hán.
So tehi nibbisevanehi indriyehi samannāgatattā – Chính là người đã đoạn tận sự chấp thủ với các căn ấy, do vậy được xem là đầy đủ các căn (tức đã thanh tịnh và không còn bị lôi cuốn bởi các căn).
Cakkhādīni vā cha indriyāni sammasantassa uppannehi saddhādīhi indriyehi samannāgatattā – Hoặc là: trong lúc vị ấy quán sát sáu căn như mắt, v.v., thì những năng lực tinh thần như tín (saddhā), tinh tấn, niệm, định, tuệ phát sinh, nên người ấy được gọi là thành tựu các căn (ý nói đến ngũ quyền/ngũ lực phát sinh khi thực hành quán căn).
Taṃ sandhāya bhagavā "cakkhundriye cetiādinā nayena" desanaṃ vitthāretvā... – Vì vậy, Đức Thế Tôn đã mở rộng bài thuyết giảng theo cách trình bày bắt đầu bằng “trong khi quán sát nhãn căn…”
…ettāvatā kho bhikkhu indriyasampanno hotīti āha. – và kết luận rằng: “Này Tỳ khưu, như vậy là người thành tựu các căn.”
Dasamaṃ heṭṭhā vuttanayamevāti. – Bài kinh thứ mười (Dasama Sutta) tiếp theo cũng theo phương pháp giảng giải như đã nói ở trên (ý nói không cần lặp lại nữa vì cách giảng tương tự).
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu
153. IX. Căn (S.iv,140)
1) ...
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Các căn được thành tựu", như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, các căn được thành tựu?
4) -- Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt trong nhãn căn, vị ấy nhàm chán đối với nhãn căn... trong nhĩ căn... trong tỷ căn... trong thiệt căn... trong thân căn... Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt trong ý căn, vị ấy nhàm chán đối với ý căn. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng: "Ta đã được giải thoát".Vị ấy biết rõ rằng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
5) Cho đến như vậy, Tỷ-kheo thành tựu các căn.