- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 28.5.2022
MÃNH LỰC CỦA HIỀM HẬN
Kinh Kokālika (2) (Kokālikasuttaṃ)
CHƯƠNG VI. TƯƠNG ƯNG PHẠM THIÊN – PHẨM THỨ NHẤT (S. i, 119)
Khi sự căm ghét trở thành oan kết thì không dễ dàng để buông bỏ. Chính oan trái tạo ra nhiều ác hạnh không phải chỉ một đời mà nhiều đời trong giòng sanh tử. Khi hiềm hận chất chứa cao độ thì dù đối tượng là thánh nhân thì cao khiết cũng thành xấu xa. Một khi hận thù đã lên men thì Trời có khuyên, Phật có dạy cũng không chuyển hoá được. Những ai hiểu được sự độc hại của hận thù sẽ quyết tâm diệt trừ những oan kết trong lòng.
Sāvatthinidānaṃ. Atha kho kokāliko bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘pāpicchā, bhante, sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatā’’ti. Evaṃ vutte, bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘mā hevaṃ, kokālika, avaca; mā hevaṃ, kokālika, avaca. Pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ. Pesalā sāriputtamoggallānā’’ti. Dutiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiñcāpi me, bhante, bhagavā saddhāyiko paccayiko; atha kho pāpicchāva bhante, sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatā’’ti. Dutiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘mā hevaṃ, kokālika, avaca; mā hevaṃ, kokālika, avaca. Pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ. Pesalā sāriputtamoggallānā’’ti. Tatiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiñcāpi...pe... icchānaṃ vasaṃ gatā’’ti. Tatiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘mā hevaṃ...pe... pesalā sāriputtamoggallānā’’ti.
Tại Sāvatthi.
Bấy giờ tỳ khưu Kokālika đi đến Thế Tôn. Sau khi đến vị nầy đảnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống một bên rồi bạch rằng:
-- Bạch Đức Thế Tôn, Sāriputta và Moggallāna có ác dục. Họ bị ác dục chi phối.
Khi nghe nói vậy, Thế Tôn bảo tỳ khưu Kokālika:
-- Này Kokālika, chớ có nói như vậy. Này Kokālika, chớ có nói như vậy. Này Kokālika, hãy đặt niềm tin ở Sāriputta và Moggallāna . Sāriputta và Moggallāna thật là khả kính.
Lần thứ hai, ….
Lần thứ ba, [tỳ khưu Kokālika lập lại cáo buộc của mình và Đức Thế Tôn vẫn khuyên ngăn]
Atha kho kokāliko bhikkhu uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. Acirapakkantassa ca kokālikassa bhikkhuno sāsapamattīhi pīḷakāhi [piḷakāhi (sī. pī.)] sabbo kāyo phuṭo ahosi. Sāsapamattiyo hutvā muggamattiyo ahesuṃ, muggamattiyo hutvā kalāyamattiyo ahesuṃ, kalāyamattiyo hutvā kolaṭṭhimattiyo ahesuṃ, kolaṭṭhimattiyo hutvā kolamattiyo ahesuṃ, kolamattiyo hutvā āmalakamattiyo ahesuṃ, āmalakamattiyo hutvā beluvasalāṭukamattiyo ahesuṃ, beluvasalāṭukamattiyo hutvā billamattiyo ahesuṃ, billamattiyo hutvā pabhijjiṃsu. Pubbañca lohitañca pagghariṃsu. Atha kho kokāliko bhikkhu teneva ābādhena kālamakāsi. Kālaṅkato ca kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapajji sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā.
Rồi tỳ khưu Kokālika từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Thế Tôn, thân bên phải hướng về Ngài, rồi ra đi.
Không lâu sau đó tỳ khưu Kokālika lâm bệnh toàn thân nổi lên những mụt nhỏ. Ban đầu bằng hạt cải rồi lớn bằng hạt đậu. Sau đó lớn bằng hột kalāya, rồi lớn bằng hột rolatthi, lại lớn bằng trái kolama. Những mụt nầy lại to bằng trái amala, lớn dần như trái beluva, rồi như trái billa. Sau đó vỡ ra với máu và mủ rồi mạng sống chấm dứt. Do mệnh chung với tâm hiềm hận Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggallāna nên vị ấy sanh vào địa ngục Paduma.
Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kokāliko, bhante, bhikkhu kālaṅkato. Kālaṅkato ca, bhante, kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’’ti. Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti.
Bấy giờ khi đêm gần tàn, Phạm thiên Sahampati với dung sắc thù diệu, hào quang sáng toả khắp đại tự Jetavana đi đến Đức Thế Tôn.
Sau khi đến vị nầy đảnh lễ Đức Thế Tôn và đứng một bên rồi bạch rằng:
-- Bạch Thế Tôn, tỳ khưu Kokālika mệnh chung. Do mệnh chung với tâm hiềm hận Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggallāna nên vị ấy sanh vào địa ngục Paduma.
Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, brahmā sahampati maṃ etadavoca – ‘kokāliko, bhante, bhikkhu kālaṅkato. Kālaṅkato ca, bhante, kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’ti. Idamavoca, bhikkhave, brahmā sahampati, idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti.
Sáng hôm sau Đức Thế Tôn nói với chư tỳ khưu:
Này chư Tỳ khưu, tối qua khi đêm gần tàn, Phạm thiên Sahampati với dung sắc thù diệu, hào quang sáng toả khắp đại tự Jetavana đi đến gặp Ta.
Sau khi đến vị nầy đảnh lễ Ta và đứng một bên rồi bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, tỳ khưu Kokālika mệnh chung. Do mệnh chung với tâm hiềm hận Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggallāna nên vị ấy sanh vào địa ngục Paduma”. Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ ấy.
Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kīvadīghaṃ nu kho, bhante, padume niraye āyuppamāṇa’’nti? ‘‘Dīghaṃ kho, bhikkhu, padume niraye āyuppamāṇaṃ. Taṃ na sukaraṃ saṅkhātuṃ – ettakāni vassāni iti vā, ettakāni vassasatāni iti vā, ettakāni vassasahassāni iti vā, ettakāni vassasatasahassāni iti vā’’ti. ‘‘Sakkā pana, bhante, upamaṃ kātu’’nti? ‘‘Sakkā, bhikkhū’’ti bhagavā avoca –
‘‘Seyyathāpi, bhikkhu vīsatikhāriko kosalako tilavāho. Tato puriso vassasatassa vassasatassa accayena ekamekaṃ tilaṃ uddhareyya; khippataraṃ kho so, bhikkhu, vīsatikhāriko kosalako tilavāho iminā upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya, na tveva eko abbudo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati abbudā nirayā, evameko nirabbudanirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati nirabbudā nirayā, evameko ababo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ababā nirayā, evameko aṭaṭo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati aṭaṭā nirayā, evameko ahaho nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ahahā nirayā, evameko kumudo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati kumudā nirayā, evameko sogandhiko nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati sogandhikā nirayā, evameko uppalanirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati uppalā nirayā, evameko puṇḍariko nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati puṇḍarikā nirayā, evameko padumo nirayo. Padume pana, bhikkhu, niraye kokāliko bhikkhu upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’’ti.
Ðược nghe vậy, một tỳ khưu bạch hỏi Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, tuổi thọ trong địa ngục Paduma là bao lâu?
-- Này tỳ khưu, tuổi thọ trong địa ngục Paduma rất dài. Khó có thể tính bằng con số của năm tháng.
-- Bạch Thế Tôn, có thể tính được chăng bằng một ví dụ?
Đức Thế Tôn đáp:
-- Có thể được, này Tỷ khưu. Ví như số hạt mè chở đầy xe theo đơn vị đo lường xứ Kosala là hai mươi khārika. Mỗi trăm năm có một người đến lấy ra một hạt mè cho đến khi không còn hạt mè nào đó là tuổi thọ trong dịa ngục Abhuda. Hai mươi lần tuổi thọ ở Abhuda là tuổi thọ của địa ngục Nirabbuda. Hai mươi lần tuổi thọ ở Nirabbuda là tuổi thọ của địa ngục Abala. Hai mươi lần tuổi thọ ở Abalalà là tuổi thọ của địa ngục Aṭaṭa. Hai mươi lần tuổi thọ ở Aṭaṭa là tuổi thọ của địa ngục Ahaha. Hai mươi lần tuổi thọ ở Ahaha là tuổi thọ của địa ngục Kumuda. Hai mươi lần tuổi thọ ở Kumuda là tuổi thọ của địa ngục Sogandika. Hai mươi lần tuổi thọ ở Sogandika là tuổi thọ của địa ngục Uppala. Hai mươi lần tuổi thọ ở Uppala là tuổi thọ của địa ngục Puṇḍarika. Hai mươi lần tuổi thọ ở Puṇḍarika là tuổi thọ của địa ngục Paduma. Tỳ khưu Kokālika mệnh chung sanh vào địa ngục Paduma do tâm hiềm hận Sāriputta và Moggallāna.
Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Purisassa hi jātassa,
Kuṭhārī jāyate mukhe;
Yāya chindati attānaṃ,
Bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.
‘‘Yo nindiyaṃ pasaṃsati,
Taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo;
Vicināti mukhena so kaliṃ,
Kalinā tena sukhaṃ na vindati.
‘‘Appamattako ayaṃ kali,
Yo akkhesu dhanaparājayo;
Sabbassāpi sahāpi attanā,
Ayameva mahantaro kali;
Yo sugatesu manaṃ padosaye.
‘‘Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ,
Chattiṃsati pañca ca abbudāni;
Yamariyagarahī nirayaṃ upeti,
Vācaṃ manañca paṇidhāya pāpaka’’nti.
Sau khi nói như vậy, Đấng Thiện Thệ lại nói thêm:
‘‘Khi một người sanh ra
Với lưỡi búa trong miệng
Tự chặt chém chính mình
Với ngôn ngữ hủy bang.
‘‘Ai khen kẻ bất xứng,
Chỉ trích bậc đáng khen
Là hoạ tùng khẩu xuất
Không tìm được tịnh yên.
‘‘Nhỏ nhoi là thua bài
Dủ thua cả sản nghiệp
Mất sạch nhưng không bằng
Hiềm hận với thánh nhân.
‘‘Kẻ hủy báng bậc thánh
Với khẩu ác, ý ác
Phải khổ trong địa ngục
Suốt thời thời gian dài
Trăm ngàn nirabbudas
Cộng thêm ba mươi sáu
Và năm abbudas.
‘‘Purisassa hi jātassa kuṭhārī jāyate mukhe = người sanh ra với lưỡi búa trong miệng
Yāya chindati attānaṃ bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ = kẻ ngu tự hại mình với lời nói ác
‘‘Yo nindiyaṃ pasaṃsati = người tán thán người không đáng tán thán
Taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo = hay chỉ trích người đáng tán thán
Vicināti mukhena so kaliṃ = chất chứa sự bất hạnh do chính miệng
Kalinā tena sukhaṃ na vindati = không tìm được an lạc bởi cách ấy
‘‘Appamattako ayaṃ kali = chuyện thua bài bạc chỉ là chuyện nhỏ
Yo akkhesu dhanaparājayo = ngay cả thua sạch tất cả tài sản
Sabbassāpi sahāpi attanā = tất cả những gì sở hữu, ngay cả bản thân
Ayameva mahantataro kali = điều bất hạnh lơn lao hơn nhiều
Yo sugatesu manaṃ padosaye = là mang hiềm hận với các bậc thánh nhân
‘‘Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ = Một trăm ngàn nirabbudāna
Chattiṃsati pañca ca abbudāni = cộng với thêm ba mươi sáu và năm abbudāni
Yamariyagarahī nirayaṃ upeti = kẻ huỷ báng thánh nhân sa địa ngục
Vācaṃ manañca paṇidhāya pāpaka’’nti = do lời nói và ý nghĩ ác đối với các Ngài
Trong phẩm nầy trước khi cũng có bài kinh tên Kinh Kokālika (Kokālikasuttaṃ) cả hai đều không đánh số nên bản dịch thêm số vào ngoặc đơn.
The kinh Bổn Sanh Takkāriya thì sự hiềm hận của tỳ khưu Kokālika bắt nguồn từ một tiền kiếp sau đó oan trái nhiều đời. Sớ giải cũng kể lại câu chuyện trong hiện kiếp tỳ khưu Kolālika bất mãn lớn đối với nhị vị thượng thủ thinh văn chỉ vì lý do danh lợi như được ghi trong Kinh Pháp Cú câu 360.
Theo Sớ giải thì địa ngục Paduma là một phần của địa ngục Avīci (địa ngục A tỳ hay điạ ngục Vô gián).
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
10. Kokālikasuttaṃ [Mūla]
181. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho kokāliko bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘pāpicchā, bhante, sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatā’’ti. Evaṃ vutte, bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘mā hevaṃ, kokālika, avaca; mā hevaṃ, kokālika, avaca. Pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ. Pesalā sāriputtamoggallānā’’ti. Dutiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiñcāpi me, bhante, bhagavā saddhāyiko paccayiko; atha kho pāpicchāva bhante, sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatā’’ti. Dutiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘mā hevaṃ, kokālika, avaca; mā hevaṃ, kokālika, avaca. Pasādehi, kokālika, sāriputtamoggallānesu cittaṃ. Pesalā sāriputtamoggallānā’’ti. Tatiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiñcāpi...pe... icchānaṃ vasaṃ gatā’’ti. Tatiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca – ‘‘mā hevaṃ...pe... pesalā sāriputtamoggallānā’’ti.
Atha kho kokāliko bhikkhu uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. Acirapakkantassa ca kokālikassa bhikkhuno sāsapamattīhi pīḷakāhi [piḷakāhi (sī. pī.)] sabbo kāyo phuṭo ahosi. Sāsapamattiyo hutvā muggamattiyo ahesuṃ, muggamattiyo hutvā kalāyamattiyo ahesuṃ, kalāyamattiyo hutvā kolaṭṭhimattiyo ahesuṃ, kolaṭṭhimattiyo hutvā kolamattiyo ahesuṃ, kolamattiyo hutvā āmalakamattiyo ahesuṃ, āmalakamattiyo hutvā beluvasalāṭukamattiyo ahesuṃ, beluvasalāṭukamattiyo hutvā billamattiyo ahesuṃ, billamattiyo hutvā pabhijjiṃsu. Pubbañca lohitañca pagghariṃsu. Atha kho kokāliko bhikkhu teneva ābādhena kālamakāsi. Kālaṅkato ca kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapajji sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā.
Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kokāliko, bhante, bhikkhu kālaṅkato. Kālaṅkato ca, bhante, kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’’ti. Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti.
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, brahmā sahampati maṃ etadavoca – ‘kokāliko, bhante, bhikkhu kālaṅkato. Kālaṅkato ca, bhante, kokāliko bhikkhu padumaṃ nirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’ti. Idamavoca, bhikkhave, brahmā sahampati, idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti.
Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kīvadīghaṃ nu kho, bhante, padume niraye āyuppamāṇa’’nti? ‘‘Dīghaṃ kho, bhikkhu, padume niraye āyuppamāṇaṃ. Taṃ na sukaraṃ saṅkhātuṃ – ettakāni vassāni iti vā, ettakāni vassasatāni iti vā, ettakāni vassasahassāni iti vā, ettakāni vassasatasahassāni iti vā’’ti. ‘‘Sakkā pana, bhante, upamaṃ kātu’’nti? ‘‘Sakkā, bhikkhū’’ti bhagavā avoca –
‘‘Seyyathāpi, bhikkhu vīsatikhāriko kosalako tilavāho. Tato puriso vassasatassa vassasatassa accayena ekamekaṃ tilaṃ uddhareyya; khippataraṃ kho so, bhikkhu, vīsatikhāriko kosalako tilavāho iminā upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya, na tveva eko abbudo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati abbudā nirayā, evameko nirabbudanirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati nirabbudā nirayā, evameko ababo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ababā nirayā, evameko aṭaṭo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati aṭaṭā nirayā, evameko ahaho nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ahahā nirayā, evameko kumudo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati kumudā nirayā, evameko sogandhiko nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati sogandhikā nirayā, evameko uppalanirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati uppalā nirayā, evameko puṇḍariko nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati puṇḍarikā nirayā, evameko padumo nirayo. Padume pana, bhikkhu, niraye kokāliko bhikkhu upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’’ti. Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
‘‘Purisassa hi jātassa,
Kuṭhārī jāyate mukhe;
Yāya chindati attānaṃ,
Bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.
‘‘Yo nindiyaṃ pasaṃsati,
Taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo;
Vicināti mukhena so kaliṃ,
Kalinā tena sukhaṃ na vindati.
‘‘Appamattako ayaṃ kali,
Yo akkhesu dhanaparājayo;
Sabbassāpi sahāpi attanā,
Ayameva mahantaro kali;
Yo sugatesu manaṃ padosaye.
‘‘Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ,
Chattiṃsati pañca ca abbudāni;
Yamariyagarahī nirayaṃ upeti,
Vācaṃ manañca paṇidhāya pāpaka’’nti.
10. Kokālikasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
181. Dasame kokāliko bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkamīti, ko ayaṃ kokāliko, kasmā ca upasaṅkami? Ayaṃ kira kokālikaraṭṭhe kokālikanagare kokālikaseṭṭhissa putto pabbajitvā pitarā kārāpite vihāre paṭivasati cūḷakokālikoti nāmena, na devadattassa sisso. So hi brāhmaṇaputto mahākokāliko nāma. Bhagavati pana sāvatthiyaṃ viharante dve aggasāvakā pañcamattehi bhikkhusatehi saddhiṃ janapadacārikaṃ caramānā upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya vivekāvāsaṃ vasitukāmā te bhikkhū uyyojetvā attano pattacīvaramādāya tasmiṃ janapade taṃ nagaraṃ patvā taṃ vihāraṃ agamaṃsu. Tattha nesaṃ kokāliko vattaṃ dassesi. Te tena saddhiṃ sammoditvā, ‘‘āvuso, mayaṃ idha temāsaṃ vasissāma, mā kassaci ārocehī’’ti paṭiññaṃ gahetvā vasiṃsu. Vasitvā pavāraṇādivase pavāretvā, ‘‘gacchāma mayaṃ, āvuso’’ti kokālikaṃ āpucchiṃsu. Kokāliko ‘‘ajjekadivasaṃ, āvuso, vasitvā sve gamissathā’’ti vatvā dutiyadivase nagaraṃ pavisitvā manusse āmantesi – ‘‘āvuso, tumhe aggasāvake idhāgantvā vasamānepi na jānātha, na ne koci paccayenāpi nimantetī’’ti. Nagaravāsino, ‘‘kahaṃ, bhante, therā, kasmā no na ārocayitthā’’ti? Kiṃ āvuso ārocitena, kiṃ na passatha dve bhikkhū therāsane nisīdante, ete aggasāvakāti. Te khippaṃ sannipatitvā sappiphāṇitādīni ceva cīvaradussāni ca saṃhariṃsu.
Kokāliko cintesi – ‘‘paramappicchā aggasāvakā payuttavācāya uppannaṃ lābhaṃ na sādiyissanti, asādiyantā ‘āvāsikassa dethā’ti vakkhantī’’ti. Taṃ taṃ lābhaṃ gāhāpetvā therānaṃ santikaṃ agamāsi. Therā disvāva ‘‘ime paccayā neva amhākaṃ, na kokālikassa kappantī’’ti paṭikkhipitvā pakkamiṃsu. Kokāliko ‘‘kathaṃ hi nāma attanā agaṇhantā mayhampi adāpetvā pakkamissantī’’ti? Āghātaṃ uppādesi.
Tepi bhagavato santikaṃ gantvā bhagavantaṃ vanditvā puna attano parisaṃ ādāya janapadacārikaṃ carantā anupubbena tasmiṃ raṭṭhe tameva nagaraṃ paccāgamiṃsu. Nāgarā there sañjānitvā saha parikkhārehi dānaṃ sajjitvā nagaramajjhe maṇḍapaṃ katvā dānaṃ adaṃsu, therānañca parikkhāre upanāmesuṃ. Therā bhikkhusaṅghassa niyyādayiṃsu. Taṃ disvā kokāliko cintesi – ‘‘ime pubbe appicchā ahesuṃ, idāni pāpicchā jātā, pubbepi appicchasantuṭṭhapavivittasadisā maññe’’ti there upasaṅkamitvā, ‘‘āvuso, tumhe pubbe appicchā viya, idāni pana pāpabhikkhū jātā’’ti vatvā ‘‘mūlaṭṭhāneyeva nesaṃ patiṭṭhaṃ bhindissāmī’’ti taramānarūpo nikkhamitvā sāvatthiṃ gantvā yena bhagavā tenupasaṅkami. Ayameva kokāliko iminā ca kāraṇena upasaṅkamīti veditabbo.
Bhagavā taṃ turitaturitaṃ āgacchantaṃ disvāva āvajjento aññāsi – ‘‘ayaṃ aggasāvake akkositukāmo āgato’’ti. ‘‘Sakkā nu kho paṭisedhetu’’nti ca āvajjento, ‘‘na sakkā paṭisedhetuṃ, theresu aparajjhitvā kālaṅkato ekaṃsena padumaniraye nibbattissatī’’ti disvā, ‘‘sāriputtamoggallānepi nāma garahantaṃ sutvā na nisedhetī’’ti vādamocanatthaṃ ariyūpavādassa ca mahāsāvajjabhāvadassanatthaṃ mā hevanti tikkhattuṃ paṭisedhesi. Tattha mā hevanti mā evaṃ abhaṇi. Saddhāyikoti saddhāya ākaro pasādāvaho saddhātabbavacano vā. Paccayikoti pattiyāyitabbavacano.
Pakkāmīti kammānubhāvena codiyamāno pakkāmi. Okāsakataṃ hi kammaṃ na sakkā paṭibāhituṃ, taṃ tassa tattha ṭhātuṃ na adāsi. Acirapakkantassāti pakkantassa sato na cireneva. Sabbo kāyo phuṭo ahosīti kesaggamattampi okāsaṃ āvajjetvā sakalasarīraṃ aṭṭhīni bhinditvā uggatāhi pīḷakāhi ajjhotthaṭaṃ ahosi. Yasmā pana buddhānubhāvena tathārūpaṃ kammaṃ buddhānaṃ sammukhībhāve vipākaṃ na deti, dassanūpacāre vijahitamatte deti, tasmā tassa acirapakkantassa pīḷakā uṭṭhahiṃsu. Kalāyamattiyoti caṇakamattiyo. Beluvasalāṭukamattiyoti taruṇabeluvamattiyo. (Billamattiyoti mahābeluvamattiyo.) Pabhijjiṃsūti bhijjiṃsu. Tāsu bhinnāsu sakalasarīraṃ panasapakkaṃ viya ahosi. So pakkena gattena jetavanadvārakoṭṭhake visagilito maccho viya kadalipattesu sayi. Atha dhammasavanatthaṃ āgatāgatā manussā – ‘‘dhi kokālika, dhi kokālika, ayuttamakāsi, attanoyeva mukhaṃ nissāya anayabyasanaṃ patto’’ti āhaṃsu. Tesaṃ sutvā ārakkhadevatā dhi-kāraṃ akaṃsu. Ārakkhakadevatānaṃ ākāsadevatāti iminā upāyena yāva akaniṭṭhabhavanā ekadhikāro udapādi. Athassa upajjhāyo āgantvā ovādaṃ agaṇhantaṃ ñatvā garahitvā pakkāmi.
Kālamakāsīti upajjhāye pakkante kālamakāsi. Padumaṃ nirayanti pāṭiyekko padumanirayo nāma natthi, avīcimahānirayamhiyeva pana padumagaṇanāya paccitabbe ekasmiṃ ṭhāne nibbatti.
Vīsatikhārikoti māgadhakena patthena cattāro patthā kosalaraṭṭhe ekapattho hoti, tena patthena cattāro patthā āḷhakaṃ, cattāri āḷhakāni doṇaṃ, catudoṇā mānikā, catumānikā khārī, tāya khāriyā vīsatikhāriko. Tilavāhoti māgadhakānaṃ sukhumatilānaṃ tilasakaṭaṃ. Abbudo nirayoti abbudo nāma pāṭiyekko nirayo natthi. Avīcimhiyeva pana abbudagaṇanāya paccitabbaṭṭhānassetaṃ nāmaṃ. Nirabbudādīsupi eseva nayo.
Vassagaṇanāpi panettha evaṃ veditabbā – yatheva hi sataṃ satasahassāni koṭi hoti, evaṃ sataṃ satasahassakoṭiyo pakoṭi nāma hoti, sataṃ satasahassapakoṭiyo koṭipakoṭi nāma, sataṃ satasahassakoṭipakoṭiyo nahutaṃ, sataṃ satasahassanahutāni ninnahutaṃ, sataṃ satasahassaninnahutāni ekaṃ abbudaṃ, tato vīsatiguṇaṃ nirabbudaṃ. Eseva nayo sabbatthāti. Dasamaṃ.