Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || LỜI KHUYÊN DẠY CHÍ TÌNH - Kinh Số 172 và 173 (Ekaputtakasuttaṃ, Ekadhītusuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || LỜI KHUYÊN DẠY CHÍ TÌNH - Kinh Số 172 và 173 (Ekaputtakasuttaṃ, Ekadhītusuttaṃ)

Thứ năm, 09/11/2023, 06:09 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 7.11.2023

LỜI KHUYÊN DẠY CHÍ TÌNH

Kinh Số 172 và 173

Lời khuyên của mẹ thường là lời dạy chí tình. Lại là lời dạy dành cho đứa con duy nhất, dù là trai hay gái. Lời mẹ dạy tốt nhất là hướng dẫn con thành nhân, thành tài. Nếu mẹ dạy con, thì dùng những hình ảnh cao đẹp nhất để nêu gương sáng. Và nếu để bảo vệ cho con, thì nói về những hiểm hoạ nên tránh trong cuộc đời. Và Đức Phật dạy cái hiểm hoạ đáng nói nhất là mồi danh, bả lợi khiến lòng người điên đảo. Huấn ngôn của bậc Đại Giác rất khác với thường tình. Sự đam mê chạy theo danh lợi, vốn không cần dạy thì cũng tự có. Trái lại, sự bình tâm trước cám dỗ lợi danh, chỉ được dạy từ những tấm lòng yêu thương vĩ đại như Phật, như hiền mẫu mới có được.

172. Kinh Đứa Con Trai Duy Nhất (Ekaputtakasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương VI. Tương Ưng Lợi Đắc Cung Kính – Phẩm Thứ Ba (S.ii,235)

Kinh văn

Sāvatthiyaṃ viharati...pe... ‘‘dāruṇo, bhikkhave, lābhasakkārasiloko...pe... saddhā, bhikkhave, upāsikā ekaputtakaṃ piyaṃ manāpaṃ evaṃ sammā āyācamānā āyāceyya – ‘tādiso, tāta, bhavāhi yādiso citto ca gahapati hatthako ca āḷavako’ti. Esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvakānaṃ upāsakānaṃ, yadidaṃ citto ca gahapati hatthako ca āḷavako. Sace kho tvaṃ, tāta, agārasmā anagāriyaṃ pabbajasi; tādiso, tāta, bhavāhi yādisā sāriputtamoggallānāti. Esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ, yadidaṃ sāriputtamoggalānā. Mā ca kho tvaṃ, tāta, sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇātūti. Tañce, bhikkhave, bhikkhuṃ sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇāti, so tassa hoti antarāyāya. Evaṃ dāruṇo kho, bhikkhave, lābhasakkārasiloko...pe... evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti.

... Ngự tại Sāvatthi.

-- Hỡi chư Tỳ khưu, thật đáng sợ là lợi lộc, vinh dự, danh tiếng. (Những điều ấy) thật cay đắng, độc hại, ngăn ngại sự chứng đạt vô thượng an ổn, để vượt thoát khổ đau.

Này chư Tỳ khưu, một nữ cư sĩ thuần thành, dạy dỗ đứa con trai yêu quý duy nhất nên nói lời như sau: “Này con thân yêu, hãy giống như gia chủ Citta hoặc như Hattaka ở Āḷavaka.” vì hình ảnh gương mẫu, đặc trưng cho những nam cư sĩ của Ta là gia chủ Citta hoặc như Hattaka ở Āḷavaka. [Nữ cư sĩ ấy, cũng dạy đứa con trai duy nhất] “Này con thân yêu, nếu con xuất gia từ bỏ gia đình hãy như Sāriputta và Moggalāna” vì hình ảnh gương mẫu, đặc trưng cho những tỳ khưu đệ tử của Ta là Sāriputta và Moggalāna.

[Và nữ cư sĩ ấy, cũng dạy đứa con trai duy nhất] “Con thân yêu, khi còn là một người đang hành trình tu tập. Chớ để lợi lộc, vinh dự, danh vọng chạm đến tâm ý. Mong lợi lộc, vinh dự, danh vọng không chi phối con.

Hỡi chư Tỳ Khưu, thật đáng sợ là lợi lộc, vinh dự, danh vọng. (Những điều ấy) thật cay đắng, độc hại, ngăn ngại sự chứng đạt vô thượng an ổn, để vượt thoát khổ đau.

Do vậy các Thầy cần tu tập như sau: Đối với lợi lộc, vinh dự, danh vọng đã có, chúng ta sẽ từ bỏ; đối với lợi lộc, vinh dự, danh vọng chưa có, chúng ta sẽ không để cho những thứ ấy chiếm ngự tâm ý”. Này chư Tỳ Khưu, hãy tu tập như vậy.

Chú Thích

Citta là một cư sĩ đệ tử Phật ở Macchikāsanda. Vị này nguyên là viên quan thủ khố tại địa phương. Sau khi gặp Phật Pháp, cư sĩ Citta chứng tam quả a na hàm và là một trong số rất ít vị tam quả có tuệ phân tích (patisambhidā). Trong Tương Ưng Bộ, có trọn một chương tên “Tương Ưng Citta” ghi lại những đàm luận và hành trạng của vị cư sĩ mẫu mực này. Cư sĩ Citta được Đức Phật xác chứng là vị cư sĩ đệ nhất về khả năng quảng diễn giáo pháp.

Hatthaka là hoàng tử con vua xứ Ālavi. Cũng là bậc thánh tam quả a na hàm. Được Đức Thế Tôn xác chứng, là vị cư sĩ đệ nhất về hướng dẫn hội chúng. Vị này luôn sống với tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, bình đẳng) và có những đức tánh cao quý của một người hiền đức. Cư sĩ Hatthaka thường đến chùa tạo phước, nghe pháp với nhóm đông đảo cư sĩ tháp tùng.

Nhị vị tôn giả Sāriputta và Moggalāna hai bậc thượng thủ thinh văn đệ tử Phật. Luôn là hình ảnh kiểu mẫu của bậc thánh đệ tử với thành tựu trọn vẹn của tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Kinh Đứa Con Gái Duy Nhất (Ekadhītusuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương VI. Tương Ưng Lợi Đắc Cung Kính – Phẩm Thứ Ba (S.ii,236)

Kinh văn

173. sāvatthiyaṃ viharati ... pe ... “dāruṇo, bhikkhave, lābhasakkārasiloko ... pe ... saddhā bhikkhave upāsikā ekaṃ dhītaraṃ piyaṃ manāpaṃ evaṃ sammā āyācamānā āyāceyya — ‘tādisā, ayye, bhavāhi yādisā khujjuttarā ca upāsikā veḷukaṇḍakiyā {veḷukaṇḍakī (sī. chakkaṅguttarepi)} ca nandamātā’ti. esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ, yadidaṃ khujjuttarā ca upāsikā veḷukaṇḍakiyā ca nandamātā. sace kho tvaṃ, ayye, agārasmā anagāriyaṃ pabbajasi; tādisā, ayye, bhavāhi yādisā khemā ca bhikkhunī uppalavaṇṇā cāti. esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvikānaṃ bhikkhunīnaṃ, yadidaṃ khemā ca bhikkhunī uppalavaṇṇā ca. mā ca kho tvaṃ, ayye, sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇātūti. taṃ ce, bhikkhave, bhikkhuniṃ sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇāti, so tassā hoti antarāyāya. evaṃ dāruṇo kho, bhikkhave, lābhasakkārasiloko ... pe ... evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabban”ti. catutthaṃ.

... Ngự tại Sāvatthi.

-- Hỡi chư Tỳ khưu, thật đáng sợ là lợi lộc, vinh dự, danh tiếng. (Những điều ấy) thật cay đắng, độc hại, ngăn ngại sự chứng đạt vô thượng an ổn, để vượt thoát khổ đau.

Này chư Tỳ khưu, một nữ cư sĩ thuần thành, dạy dỗ đứa con gái yêu quý duy nhất nên nói lời như sau: “Này con thân yêu, hãy giống như nữ cư sĩ Khujjuttarā và nữ cư sĩ Veḷukaṇḍakiyā - mẹ của Nanda.” vì hình ảnh gương mẫu, đặc trưng cho những nữ cư sĩ của Ta, là nữ cư sĩ Khujjuttarā và nữ cư sĩ Veḷukaṇḍakiyā Nandamātā. [Nữ cư sĩ ấy, cũng dạy đứa con gái duy nhất] “Này con thân yêu, nếu con xuất gia từ bỏ gia đình hãy như (hai) tỳ khưu ni Khemā và Uppalavaṇṇā” vì hình ảnh gương mẫu, đặc trưng cho những tỳ khưu ni đệ tử của Ta là Khemā và Uppalavaṇṇā.

[Và nữ cư sĩ ấy, cũng dạy đứa con gái duy nhất] “Con thân yêu, khi còn là một người đang hành trình tu tập. Chớ để lợi lộc, vinh dự, danh vọng chạm đến tâm ý. Mong lợi lộc, vinh dự, danh vọng không chi phối con.

Hỡi chư Tỳ Khưu, thật đáng sợ là lợi lộc, vinh dự, danh vọng. (Những điều ấy) thật cay đắng, độc hại, ngăn ngại sự chứng đạt vô thượng an ổn, để vượt thoát khổ đau.

Do vậy các Thầy cần tu tập như sau: Đối với lợi lộc, vinh dự, danh vọng đã có, chúng ta sẽ từ bỏ; đối với lợi lộc, vinh dự, danh vọng chưa có, chúng ta sẽ không để cho những thứ ấy chiếm ngự tâm ý”. Này chư Tỳ Khưu, hãy tu tập như vậy.

Chú Thích

Khujjuttarā là một thị nữ trong cung của hoàng hậu Sāmāvatī. Do nghe Phật thuyết pháp chứng được quả nhập lưu. Sau đó, do sự thành thật và trình độ tri thức cao, được hoàng hậu tín cấn và uỷ nhiệm việc đi nghe pháp, rồi trở về hoàng cung thuật lại, để hoàng hậu và tất cả cung nhân được lợi lạc. Sau này, những gì nữ cư sĩ Khujjuttarā tường thuật lại, được kết tập thành Tập Kinh Phật Thuyết Như Vậy (Itivuttaka) trong Tam Tạng. Khujjuttarā được Đức Phật xác chứng là bậc đệ nhất đa văn trong hàng nữ cư sĩ.

Veḷukaṇḍakiyā Nandamātā là một nữ cư sĩ tại Velukanta. Vị cư sĩ này là vị thánh a na hàm. Nằm lòng nhiều Phật ngôn và có thể xuất nhập tự tại các tầng thiền. Là một người được Tứ Thiên Vương yêu kính và cắt đặt các yakkha phục dịch trong nhà. Nữ cư sĩ này, ngoài sở chứng cao quý còn là người tích cực hộ độ Tăng chúng và hoằng truyền giáo pháp.

Nhị vị tỳ khưu ni Khemā và Uppalavaṇṇā là hai bậc thượng thủ trong hàng ni giới của Đức Phật. Giống như nhị vị tôn giả Sāriputta và Moggalāna bên hàng nam tu sĩ, hai vị này, một vị đệ nhất trí tuệ, một vị đệ nhất thần thông giữa những tỳ khưu ni.

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

3. Ekaputtakasuttaṃ

172. Sāvatthiyaṃ viharati...pe... ‘‘dāruṇo, bhikkhave, lābhasakkārasiloko...pe... saddhā, bhikkhave, upāsikā ekaputtakaṃ piyaṃ manāpaṃ evaṃ sammā āyācamānā āyāceyya – ‘tādiso, tāta, bhavāhi yādiso citto ca gahapati hatthako ca āḷavako’ti. Esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvakānaṃ upāsakānaṃ, yadidaṃ citto ca gahapati hatthako ca āḷavako. Sace kho tvaṃ, tāta, agārasmā anagāriyaṃ pabbajasi; tādiso, tāta, bhavāhi yādisā sāriputtamoggallānāti. Esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ, yadidaṃ sāriputtamoggalānā. Mā ca kho tvaṃ, tāta, sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇātūti. Tañce, bhikkhave, bhikkhuṃ sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇāti, so tassa hoti antarāyāya. Evaṃ dāruṇo kho, bhikkhave, lābhasakkārasiloko...pe... evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti. Tatiyaṃ.

4. Ekadhītusuttaṃ


173. Sāvatthiyaṃ viharati ... pe ... “dāruṇo, bhikkhave, lābhasakkārasiloko ... pe ... saddhā bhikkhave upāsikā ekaṃ dhītaraṃ piyaṃ manāpaṃ evaṃ sammā āyācamānā āyāceyya — ‘tādisā, ayye, bhavāhi yādisā khujjuttarā ca upāsikā veḷukaṇḍakiyā {veḷukaṇḍakī (sī. chakkaṅguttarepi)} ca nandamātā’ti. esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ, yadidaṃ khujjuttarā ca upāsikā veḷukaṇḍakiyā ca nandamātā. sace kho tvaṃ, ayye, agārasmā anagāriyaṃ pabbajasi; tādisā, ayye, bhavāhi yādisā khemā ca bhikkhunī uppalavaṇṇā cāti. esā, bhikkhave, tulā etaṃ pamāṇaṃ mama sāvikānaṃ bhikkhunīnaṃ, yadidaṃ khemā ca bhikkhunī uppalavaṇṇā ca. mā ca kho tvaṃ, ayye, sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇātūti. taṃ ce, bhikkhave, bhikkhuniṃ sekhaṃ appattamānasaṃ lābhasakkārasiloko anupāpuṇāti, so tassā hoti antarāyāya. evaṃ dāruṇo kho, bhikkhave, lābhasakkārasiloko ... pe ... evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabban”ti. catutthaṃ.

3-6. Ekaputtakasuttādivaṇṇanā

172-175. Tatiye saddhāti sotāpannā. Sesamettha uttānameva. Tathā catutthe pañcame chaṭṭhe ca. Tatiyādīni.

 

 

Ý kiến bạn đọc