Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KHI SỰ THÀNH CÔNG MANG TÁNH TỰ HUỶ - Kinh Devadatta (Devadattasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KHI SỰ THÀNH CÔNG MANG TÁNH TỰ HUỶ - Kinh Devadatta (Devadattasuttaṃ)

Thứ tư, 01/06/2022, 17:46 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 1.6.2022


KHI SỰ THÀNH CÔNG MANG TÁNH TỰ HUỶ

Kinh Devadatta (Devadattasuttaṃ)

CHƯƠNG VI. TƯƠNG ƯNG PHẠM THIÊN – PHẨM THỨ HAI (S. i, 153)

Có những thứ trong đời thoạt đầu như thành công lại chính là khởi điểm của suy thoái. Danh lợi hại kẻ ham danh mê lợi. Ít người ở đời thấy được hiểm hoạ của lợi danh. Nguy hại nhất là khi có danh lợi rồi thì phải bảo vệ bằng mọi giá bất chấp thủ đoạn. Càng đi xa càng lún sâu không có lối về. Trong thế giới tự nhiên có những cây cỏ sau khi đơm hoa kết trái thì tàn lụn. Đời sống của con người cũng có hiện tượng tương tự. Thành bại, phúc hoạ khó lường. Người trí hiểu cái gì mang tính giai đoạn, cái gì lâu dài. Và cũng ý thức có những ngọt ngào là độc tố đưa đến khổ đau bất hạnh.

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate acirapakkante devadatte. Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ gijjhakūṭaṃ pabbataṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati devadattaṃ ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Phalaṃ ve kadaliṃ hanti, phalaṃ veḷuṃ phalaṃ naḷaṃ;

Sakkāro kāpurisaṃ hanti, gabbho assatariṃ yathā’’ti.

Tôi được nghe như vầy

Thuở ấy Đức Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakute (Linh Thứu) khoảng thời gian ngắn sau khi Devadatta bỏ đi.

Khi đêm đã gần tàn Phạm thiên Sahampati với dung sắc thù diệu, toả sáng khắp núi Linh Thứu, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và đứng một bên nói lên kệ ngôn về sự ra đi của Devadatta:

Chuối trỗ buồng chuối chết

Tre đơm hoa tre tàn

Sanh con, la mẹ chết

Danh hại kẻ hám danh.

Phalaṃ ve kadaliṃ hanti = trái chuối làm chết cây chuối

phalaṃ veḷuṃ phalaṃ naḷaṃ = tre, lau sậy cũng thế

Sakkāro kāpurisaṃ hanti = hư danh khiến kẻ hám danh diệt vong

gabbho assatariṃ yathā’ti = như thai bào giết chết mẹ của con la

Chữ assatari – ngựa lai – ở đây chỉ con la. Khi con lừa cái giao phối với ngựa đực thì sanh con thường phải chết vì thai bào quá lớn nên phải mổ để lấy ra. Con của ngựa và lừa gọi là con la.

Devadatta là một tỳ khưu đệ tử Phật. Thời gian đầu xuất gia tinh tấn tu tập chứng thiền và thần thông. Sau nầy vì ham mê danh lợi và do tiền duyên bất thiện nên khao khát muốn lãnh đạo Tăng chúng qua sự ủng hộ của thế quyền. Vị nầy đã dùng nhiều thủ đoạn để đạt mục đích. Một trong những ác hạnh là chia rẽ Tăng bằng chiêu bài tu hành thật gắt gao nên một số tân tỳ khưu nhẹ dạ tin theo.

Kệ ngôn nầy ban đầu do chính Đức Phật nói khi Devadatta nhận được sự cúng dường trọng thể mỗi ngày từ tân quân Ajāsattu (A xà thế). Phạm thiên Sahampati chỉ lập lại sau sự kiện Devadatta chia rẽ Tăng.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

2. Devadattasuttaṃ [Mūla]

183. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate acirapakkante devadatte. Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ gijjhakūṭaṃ pabbataṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati devadattaṃ ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Phalaṃ ve kadaliṃ hanti, phalaṃ veḷuṃ phalaṃ naḷaṃ;

Sakkāro kāpurisaṃ hanti, gabbho assatariṃ yathā’’ti.

2. Devadattasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

183. Dutiye acirapakkanteti saṅghaṃ bhinditvā nacirasseva veḷuvanato gayāsīsaṃ gate. Assatarinti gadrabhassa vaḷavāya jātaṃ. Dutiyaṃ.

Ý kiến bạn đọc