Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KHÁC BIỆT GIỮA TƯỢNG PHÁP VÀ CHÁNH PHÁP - Kinh Saṅgārava (Saṅgāravasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KHÁC BIỆT GIỮA TƯỢNG PHÁP VÀ CHÁNH PHÁP - Kinh Saṅgārava (Saṅgāravasuttaṃ)

Thứ tư, 03/08/2022, 17:41 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 3.8.2022


KHÁC BIỆT GIỮA TƯỢNG PHÁP VÀ CHÁNH PHÁP

Kinh Saṅgārava (Saṅgāravasuttaṃ)

(CHƯƠNG VII. TƯƠNG ƯNG BÀ LA MÔN – PHẨM CƯ SĨ) (S. I, 182)

Trong tín ngưỡng người ta thường dùng cúng tế, thờ phượng ngẫu tượng với tâm mong cầu thành tựu lợi lạc. Trên thực tế thì lợi ích thiết thực đến từ sự chuyển hoá tích cực do hành trì chánh pháp chứ không phải niềm tin suông hoặc do cúng tế. Đạo Phật nguyên thủy là phương pháp sống hiền thiện và chuyển hoá thân tâm hơn là mang hình thức tín ngưỡng dân gian. Trong đời sống tu tập thì sự thành tâm thường khi không đủ mà còn cần tới sự thực hành đúng phương pháp.

Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena saṅgāravo nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati udakasuddhiko, udakena parisuddhiṃ pacceti, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca

Tại Sāvatthi.

Thuở ấy Bà la môn Saṅgārava trú ở Sāvatthi là người thực hành pháp tu tịnh thuỷ. Mỗi ngày sáng chiều đều xuống sông tắm để thanh tịnh hoá.

Rồi một buổi sáng Tôn giả Ānanda đắp y, cầm y kép và bát vào thành Sāvatthi khất thực. Sau khi khất thực và thọ trai Tôn giả đi đến Đức Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ, ngồi xuống một bên và bạch rằng:

– ‘‘idha, bhante, saṅgāravo nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati udakasuddhiko, udakena suddhiṃ pacceti, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Sādhu, bhante, bhagavā yena saṅgāravassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’’ti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.

Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:

-- Bạch Đức Thế Tôn, Bà la môn Saṅgārava sống ở Sāvatthi, là người thực hành pháp tu tịnh thuỷ. Mỗi ngày sáng chiều đều xuống sông tắm để thanh tịnh hoá. Quả là điều tốt lành nếu Đức Thế Tôn vì lòng từ mẫn đến trú xứ của Bà la môn Saṅgārava.

Đức Thế Tôn nhận lời bằng cách im lặng.

Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena saṅgāravassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho saṅgāravo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Rồi Đức Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y kép và bát đi đến trú xứ của Bà la môn Saṅgārava; sau khi đến, Ngài ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.

Rồi Bà la môn Saṅgārava đi đến Thế Tôn ní những lời chào đón hỏi thăm thân thiện rồi ngồi xuống một bên.

Ekamantaṃ nisinnaṃ kho saṅgāravaṃ brāhmaṇaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, brāhmaṇa, udakasuddhiko, udakena suddhiṃ paccesi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharasī’’ti? ‘‘Evaṃ, bho gotama’’. ‘‘Kiṃ pana tvaṃ, brāhmaṇa, atthavasaṃ sampassamāno udakasuddhiko, udakasuddhiṃ paccesi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharasī’’ti? ‘‘Idha me, bho gotama [idha me bho gotama ahaṃ (pī. ka.)], yaṃ divā pāpakammaṃ kataṃ hoti, taṃ sāyaṃ nhānena [nahānena (sī. syā. kaṃ. pī.)] pavāhemi, yaṃ rattiṃ pāpakammaṃ kataṃ hoti taṃ pātaṃ nhānena pavāhemi. Imaṃ khvāhaṃ, bho gotama, atthavasaṃ sampassamāno udakasuddhiko, udakena suddhiṃ paccemi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharāmī’’ti.

Thế Tôn nói với Bà la môn Sangārava đang ngồi một bên:

-- Có đúng chăng, này Bà la môn, Ông là là người thực hành pháp tu tịnh thuỷ. Mỗi ngày sáng chiều đều xuống sông tắm để thanh tịnh hoá.?

-- Thưa đúng vậy, Tôn giả Gotama.

-- Này Bà la môn, Ông thực hành pháp tu tịnh thuỷ. Mỗi ngày sáng chiều đều xuống tắm tịnh thuỷ để thanh tịnh hoá đã được lợi ích gì?

-- Thưa Tôn giả Gotama, những ác nghiệp nghiệp nào làm ban ngày được tầy sạch bời tắm tịnh thuỷ vào buổi chiều; những ác nghiệp nào làm ban đêm được tẩy sạch bởi tắm tịnh thuỷ vào rạng đông. Đây là lý do tôi thực hành pháp tu tịnh thuỷ.

(Thế Tôn):

‘‘Dhammo rahado brāhmaṇa sīlatittho,

Anāvilo sabbhi sataṃ pasattho;

Yattha have vedaguno sinātā,

Anallagattāva taranti pāra’’nti.

‘‘Hỡi này Bà la môn

Chánh pháp là ao hồ

Với bến nước là giới

Hồ sạch bậc trí khen

Nơi ấy người thiện tắm

Không ướt, đáo bỉ ngạn.

Evaṃ vutte, saṅgāravo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama...pe... upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti.

Khi được nghe vậy, bà la môn Saṅgārava bạch Đức Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Diệu Pháp được Tôn giả Gotama hiển bày như người dựng đứng những gì bị ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, hay đem đèn sáng vào chỗ tăm tối để những ai có mắt thấy được. Con xin nương tựa Đức Thế Tôn Gotama, xin nương tựa Pháp, xin nương tựa tỳ khưu Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung con trọn đời quy ngưỡng.

(Bổ túc sau)

Theo Sớ giải thì chánh pháp là hồ trong mát (anāvila) vì cho dù hằng vạn người cùng tắm vẫn sạch trong.

“Tắm không ướt – anallagattāva” đồng nghĩa với “tắm không nước” chỉ cho sự thanh tịnh hoá bằng chánh pháp.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

11. Saṅgāravasuttaṃ [Mūla]

207. Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena saṅgāravo nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati udakasuddhiko, udakena parisuddhiṃ pacceti, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idha, bhante, saṅgāravo nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati udakasuddhiko, udakena suddhiṃ pacceti, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Sādhu, bhante, bhagavā yena saṅgāravassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’’ti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.

Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena saṅgāravassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho saṅgāravo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho saṅgāravaṃ brāhmaṇaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, brāhmaṇa, udakasuddhiko, udakena suddhiṃ paccesi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharasī’’ti? ‘‘Evaṃ, bho gotama’’. ‘‘Kiṃ pana tvaṃ, brāhmaṇa, atthavasaṃ sampassamāno udakasuddhiko, udakasuddhiṃ paccesi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharasī’’ti? ‘‘Idha me, bho gotama [idha me bho gotama ahaṃ (pī. ka.)], yaṃ divā pāpakammaṃ kataṃ hoti, taṃ sāyaṃ nhānena [nahānena (sī. syā. kaṃ. pī.)] pavāhemi, yaṃ rattiṃ pāpakammaṃ kataṃ hoti taṃ pātaṃ nhānena pavāhemi. Imaṃ khvāhaṃ, bho gotama, atthavasaṃ sampassamāno udakasuddhiko, udakena suddhiṃ paccemi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharāmī’’ti.

‘‘Dhammo rahado brāhmaṇa sīlatittho,

Anāvilo sabbhi sataṃ pasattho;

Yattha have vedaguno sinātā,

Anallagattāva [anallīnagattāva (ka.)] taranti pāra’’nti.

Evaṃ vutte, saṅgāravo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama...pe... upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti.

11. Saṅgāravasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

207. Ekādasame paccetīti icchati pattheti. Sādhu, bhanteti āyācamāno āha. Therassa kiresa gihisahāyo, tasmā thero ‘‘ayaṃ varāko maṃ sahāyaṃ labhitvāpi micchādiṭṭhiṃ gahetvā mā apāyapūrako ahosī’’ti āyācati. Apicesa mahāparivāro, tasmiṃ pasanne pañcakulasatāni anuvattissantīti maññamānopi āyācati. Atthavasanti atthānisaṃsaṃ atthakāraṇaṃ. Pāpanti pāṇātipātādiakusalaṃ. Pavāhemīti galappamāṇaṃ udakaṃ otaritvā pavāhemi palāpemi. Dhammoti gāthā vuttatthāva. Ekādasamaṃ.

Ý kiến bạn đọc