Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KẺ MÊ CHÊ NGƯỜI TỈNH - Kinh Ngủ Nghỉ (Supatisuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - KẺ MÊ CHÊ NGƯỜI TỈNH - Kinh Ngủ Nghỉ (Supatisuttaṃ)

Thứ ba, 22/02/2022, 10:27 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 22.2.2021


KẺ MÊ CHÊ NGƯỜI TỈNH

Kinh Ngủ Nghỉ (Supatisuttaṃ)

(CHƯƠNG IV. TƯƠNG ƯNG ÁC MA, PHẨM THỨ NHẤT) (S.i, 106)

Ma vì là ma nên thường chê Phật. Ngược đời hơn nữa là lấy đạo đức để dạy đời. Tâm ma không hiểu được tâm Phật nên chỉ thấy cái bên ngoài. Đức Phật tuy vẫn mang thân năm uẩn nên thân Ngài có lúc cần nghỉ dưỡng nhưng trong trạng thái chánh niệm. Ma luôn tìm lỗi để chỉ trích nhưng không nhận được thái độ của chính mình là ấu trĩ. Đấng Thiện Thệ đã nói lên tâm thái của bậc đoạn tận ái, một điều ngoài tầm hiểu biết của Ma.

Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

Thuở ấy Đức Thế Tôn ở Rājagaha, ở Trúc Lâm, tại khu Kalandakanivāpa (chỗ cho sóc ăn).

Atha kho bhagavā bahudevarattiṃ abbhokāse caṅkamitvā rattiyā paccūsasamayaṃ pāde pakkhāletvā vihāraṃ pavisitvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappesi pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno uṭṭhānasaññaṃ manasi karitvā.

Bấy giờ khi đêm đã gần tàn, Đức Thế Tôn sau khi kinh hành gần cả đêm ngoài trời đã rửa chân bước vào tịnh thất. Ngài nằm xuống phía hông phải theo dáng nằm con sư tử, một chân nằm trên chân kia với chánh niệm tỉnh tác ý thời điểm thức dậy.

Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn nói với Ngài kệ ngôn:

‘‘Kiṃ soppasi kiṃ nu soppasi,

Kimidaṃ soppasi dubbhago viya;

Suññamagāranti soppasi,

Kimidaṃ soppasi sūriye uggate’’ti.

Ngủ cái gì mà ngủ!

Ngủ chết như ăn mày

Nghĩ nhà chắng có ai

Ngủ trưa trời trưa trật!

(Thế Tôn)

‘‘Yassa jālinī visattikā,

Taṇhā natthi kuhiñci netave;

Sabbūpadhiparikkhayā buddho,

Soppati kiṃ tavettha mārā’’ti.

(Thế Tôn)

Không hy cầu, dính mắc

Không khát ái dẫn dắt

Phật đoạn tận sở y

Ma bận tâm cớ gì?


‘‘Kiṃ soppasi kiṃ nu soppasi Người ngủ đây sao? Thật sự ngủ à?
Kimidaṃ soppasi dubbhago viya Ngủ chết như kẻ cùng khổ, tại sao thế?
Suññamagāranti soppasi Ngủ trong ngôi nhà trống
Kimidaṃ soppasi sūriye uggate’’ti Ngủ gì khi mặt trời đã lên cao

‘‘Yassa jālinī visattikā taṇhā natthi kuhiñci netave

Không hy cầu, dính mắc, khát áy dẫn dắt
Sabbūpadhiparikkhayā buddho Phật Đà đã diệt tận mọi sanh y
Soppati kiṃ tavettha mārā’’ti Ác ma có gì phải bận lòng?

Chữ dubbhago chỉ cho người cùng khổ sau ngày dài kiếm ăn vất vả lăn ra ngủ như chết.

Theo Sớ giải hai chữ jālini (triền phưọc, rối rắm, dính mắc) và visattikā (hy cầu, dắt dẫn, cột trói) tầm cầu sự thoả mãn trong tam giới đều nằm trong trạng thái của taṇhā (ái)

Upadhi dịch là sanh y hay sở y theo sớ giải là hướng đến năm uẩn, phiền não, tạo tác hay hạnh nghiệp và truy cầu dục lạc.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

7. Supatisuttaṃ [Mūla]

143. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Atha kho bhagavā bahudevarattiṃ abbhokāse caṅkamitvā rattiyā paccūsasamayaṃ pāde pakkhāletvā vihāraṃ pavisitvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappesi pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno uṭṭhānasaññaṃ manasi karitvā. Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Kiṃ soppasi kiṃ nu soppasi,

Kimidaṃ soppasi dubbhago [dubbhato (syā. kaṃ.), dubbhayo (pī.)] viya; Suññamagāranti soppasi,

Kimidaṃ soppasi sūriye uggate’’ti.

‘‘Yassa jālinī visattikā,

Taṇhā natthi kuhiñci netave;

Sabbūpadhiparikkhayā buddho,

Soppati kiṃ tavettha mārā’’ti.

Atha kho māro pāpimā...pe... tatthevantaradhāyīti.

7. Supatisuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

143. Sattame pāde pakkhāletvāti utugāhāpanatthaṃ dhovitvā. Buddhānaṃ pana sarīre rajojallaṃ na upalimpati, udakampi pokkharapatte pakkhittaṃ viya vivaṭṭitvā gacchati. Apica kho dhotapādake gehe pāde dhovitvā pavisanaṃ pabbajitānaṃ vattaṃ. Tattha buddhānaṃ vattabhedo nāma natthi, vattasīse pana ṭhatvā dhovanti. Sace hi tathāgato neva nhāyeyya, na pāde dhoveyya, ‘‘nāyaṃ manusso’’ti vadeyyuṃ. Tasmā manussakiriyaṃ amuñcanto dhovati. Sato sampajānoti soppapariggāhakena satisampajaññena samannāgato. Upasaṅkamīti samaṇo gotamo sabbarattiṃ abbhokāse caṅkamitvā gandhakuṭiṃ pavisitvā niddāyati, ativiya sukhasayito bhavissati, ghaṭṭayissāmi nanti cintetvā upasaṅkami.

Kiṃ soppasīti kiṃ supasi, kiṃ soppaṃ nāmidaṃ tavāti vadati. Kiṃ nu soppasīti kasmā nu supasi? Dubbhago viyāti mato viya, visaññī viya ca. Suññamagāranti suññaṃ me gharaṃ laddhanti soppasīti vadati. Sūriye uggateti sūriyamhi uṭṭhite. Idāni hi aññe bhikkhū sammajjanti, pānīyaṃ upaṭṭhapenti, bhikkhācāragamanasajjā bhavanti, tvaṃ kasmā soppasiyeva.

Jālinīti tayo bhave ajjhottharitvā ṭhitena ‘‘ajjhattikassupādāya aṭṭhārasataṇhāvicaritānī’’tiādinā (vibha. 842) tena tena attano koṭṭhāsabhūtena jālena jālinī. Visattikāti rūpādīsu tattha tattha visattatāya visamūlatāya visaparibhogatāya ca visattikā. Kuhiñci netaveti katthaci netuṃ. Sabbūpadhi parikkhayāti sabbesaṃ khandhakilesābhisaṅkhārakāmaguṇabhedānaṃ upadhīnaṃ parikkhayā. Kiṃ tavettha, mārāti, māra, tuyhaṃ kiṃ ettha? Kasmā tvaṃ uṇhayāguyaṃ nilīyituṃ asakkontī khuddakamakkhikā viya antanteneva ujjhāyanto āhiṇḍasīti. Sattamaṃ.

Ý kiến bạn đọc