- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 7.12.2022
HOA KHAI BẤT TRẠCH BẦN GIA ĐỊA
Kinh Người Nghèo Khó (Daliddasuttaṃ)
CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA - PHẨM THỨ HAI (S. i, 231)
Người đời thường nhìn ai đó qua xuất thân. Con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Trong Phật pháp thì điều đáng nói không phải là hiện trạng mà là hướng đi. Có người từ chỗ tối đi tới chỗ tối; có người từ chỗ tối đi đến chỗ sáng. Và cũng có những trường hợp ngược lại. Điểm then chốt ở đây là thiện pháp có hiển sinh trong cuộc sống hay không. Có thiện pháp thì có những hiệu ứng thù thắng. Hoa nở vốn không phân vườn đất của người nghèo hay giàu.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –
Một thuở Đức Thế Tôn ngự ở Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), tại khu Kalandakanivāpe (chỗ cho sóc ăn).
Đức Thế Tôn gọi các tỳ khưu: "Này các tỳ khưu”
"Dạ, bạch Thế Tôn." Chư tỳ khưu trả lời.
Đúc Thế Tôn nói như sau:
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro puriso imasmiṃyeva rājagahe manussadaliddo ahosi manussakapaṇo manussavarāko.
So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyi, sīlaṃ samādiyi, sutaṃ samādiyi, cāgaṃ samādiyi, paññaṃ samādiyi.
So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyitvā sīlaṃ samādiyitvā sutaṃ samādiyitvā cāgaṃ samādiyitvā paññaṃ samādiyitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajji devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ. So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca.
-- Này các tỳ khưu trước đây tại thành Vương Xá này có người nghèo, cùng đinh, khốn khó.
Người ấy huân tu tín, huân tu giới, huân tu thí, huân tu tuệ trong pháp và luật do Như Lai tuyên thuyết.
Sau khi thân hoại mệnh chung người ấy sanh lên cảnh giới an lạc, cõi trời, cộng trú với chư thiên Tam Thập Tam Thiên. Vị ấy chói sáng hơn chư thiên khác về dung sắc và danh tiếng do huân tu tín, huân tu giới, huân tu thí, huân tu tuệ trong pháp và luật do Như Lai tuyên thuyết.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho! Ayañhi devaputto pubbe manussabhūto samāno manussadaliddo ahosi manussakapaṇo manussavarāko; so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ. So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā cā’’’ti.
Do sự kiện như vậy chư thiên ở Tam Thập Tam Thiên thấy khó chịu, tức tối, than phiền: Thật lạ lùng, thật khó tin. Vị thiên tử nầy thuở xưa là người nghèo, cùng đinh, khốn khó. Sau khi thân hoại mệnh chung người ấy sanh lên cảnh giới an lạc, cõi trời, cộng trú với chư thiên Tam Thập Tam Thiên. Vị ấy chói sáng hơn chư thiên khác về dung sắc và danh tiếng .
‘‘Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse āmantesi – ‘mā kho tumhe, mārisā, etassa devaputtassa ujjhāyittha. Eso kho, mārisā, devaputto pubbe manussabhūto samāno tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyi, sīlaṃ samādiyi, sutaṃ samādiyi, cāgaṃ samādiyi, paññaṃ samādiyi. So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyitvā sīlaṃ samādiyitvā sutaṃ samādiyitvā cāgaṃ samādiyitvā paññaṃ samādiyitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ. So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā cā’’’ti.
Này các tỳ khưu Thiên chủ Sakka nói chư Thiên ở Tam thập tam thiên: Các bạn thân mến, chớ khó chịu bực tức với vị thiên tử ấy. Thiên tử ấy do huân tu tín, huân tu giới, huân tu thí, huân tu tuệ trong pháp và luật do Như Lai tuyên thuyết nên sau khi thân hoại mệnh chung người ấy sanh lên cảnh giới an lạc, cõi trời, cộng trú với chư thiên Tam Thập Tam Thiên. Vị ấy chói sáng hơn chư thiên khác về dung sắc và danh tiếng.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
Này các tỳ khưu Thiên chủ Sakka sau khi nói vậy với chư Thiên ở Tam thập tam thiên liền nói lên kệ ngôn:
‘‘Yassa saddhā tathāgate, acalā suppatiṭṭhitā;
Sīlañca yassa kalyāṇaṃ, ariyakantaṃ pasaṃsitaṃ.
‘‘Saṅghe pasādo yassatthi, ujubhūtañca dassanaṃ;
Adaliddoti taṃ āhu, amoghaṃ tassa jīvitaṃ.
‘‘Tasmā saddhañca sīlañca, pasādaṃ dhammadassanaṃ;
Anuyuñjetha medhāvī, saraṃ buddhāna sāsana’’nti.
“Ai với niềm tin Phật
Kiên cố và bất động
Sống hiền thiện giới hạnh
Được bậc trí tán thán.
“Ai tịnh tín nơi Tăng
Với cái nhìn chánh trực
Người ấy không phải nghèo
Không sống trong hư vọng.
“Do vậy người hiền trí
Phụng hành lời Phật dạy
Với cả tín và giới
Do hiểu biết Chánh Pháp.
‘‘Yassa saddhā tathāgate, acalā suppatiṭṭhitā = ai có niềm tin kiên cố bất động ở Đấng Như Lai
Sīlañca yassa kalyāṇaṃ, ariyakantaṃ pasaṃsitaṃ = sống hiền thiện trong giới hạnh được bậc thánh tán thán
‘‘Saṅghe pasādo yassatthi, ujubhūtañca dassanaṃ = ai có tịnh tín nơi Tăng già và cái nhìn chánh trực
Adaliddoti taṃ āhu, amoghaṃ tassa jīvitaṃ = được gọi là người không nghèo, không sống trong hư vọng
‘‘Tasmā saddhañca sīlañca, pasādaṃ dhammadassanaṃ = thấy hiểu chân pháp với niềm tin và giới hạnh
Anuyuñjetha medhāvī, saraṃ buddhāna sāsana’nti = bậc thiện trí phụng hành lời dạy của Đức Phật
Theo Sớ giải thì người nghèo khốn khó trong bài kinh nầy là một người bị bệnh phong cùi tên Suppabuddha. Câu chuyện chi tiết về người nầy được kể trong Kinh Phật Tự Thuyết câu 48-50. Người cùi nầy trong một kiếp tiền thân là vua của xứ Bārāṇasī do xúc phạm một vị Phật Độc Giác già nua nên sau khi mạng chung sanh vào địa ngục. Khi sanh lại làm người quả nghiệp dư sót khiến sanh làm một người hành khất bị cùi trong thành Vương Xá. Một ngày kia tình cờ đi ngang pháp hội nghe được Phật thuyết pháp chứng tu đà huờn. Sau nầy bị một con bò húc chết và sanh về cõi Đao lợi.
Câu “Deve tāvatiṃse anunayamāno” được Sớ Giải Tăng Chi Bộ anubodhayamāno, saññāpentī có nghĩa là làm cho hiểu, thuyết phục. Ý câu nầy là Thiên chủ Sakka đã khiến cho chư thiên Tam Thập Tam hiều được lý lẽ.
Chú giải cũng nêu niềm tin đến từ chứng đạo (maggen′āgatasaddhā), sự hiền thiện y cứ trên giới (sīlaṃ kalyāṇaṃ) và giới hạnh của bậc thánh được thánh giả tán thán (ariyakantasīla). Tất cả những đặc điểm nầy đều là những gì thù thắng quả vị tu đà huờn. Sớ giải Kinh Pháp Cú cũng kể lại giai thoại Thiên chủ Sakka từng thử thách niềm tin Phật, Pháp của người cùi Suppabuddha.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình
4. Daliddasuttaṃ [Mūla]
260. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca –
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro puriso imasmiṃyeva rājagahe manussadaliddo [manussadaḷiddo (sī. syā. kaṃ.)] ahosi manussakapaṇo manussavarāko. So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyi, sīlaṃ samādiyi, sutaṃ samādiyi, cāgaṃ samādiyi, paññaṃ samādiyi. So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyitvā sīlaṃ samādiyitvā sutaṃ samādiyitvā cāgaṃ samādiyitvā paññaṃ samādiyitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajji devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ. So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca. Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho! Ayañhi devaputto pubbe manussabhūto samāno manussadaliddo ahosi manussakapaṇo manussavarāko; so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ. So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā cā’’’ti.
‘‘Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse āmantesi – ‘mā kho tumhe, mārisā, etassa devaputtassa ujjhāyittha. Eso kho, mārisā, devaputto pubbe manussabhūto samāno tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyi, sīlaṃ samādiyi, sutaṃ samādiyi, cāgaṃ samādiyi, paññaṃ samādiyi. So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyitvā sīlaṃ samādiyitvā sutaṃ samādiyitvā cāgaṃ samādiyitvā paññaṃ samādiyitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ. So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā cā’’’ti. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
‘‘Yassa saddhā tathāgate, acalā suppatiṭṭhitā;
Sīlañca yassa kalyāṇaṃ, ariyakantaṃ pasaṃsitaṃ.
‘‘Saṅghe pasādo yassatthi, ujubhūtañca dassanaṃ;
Adaliddoti taṃ āhu, amoghaṃ tassa jīvitaṃ.
‘‘Tasmā saddhañca sīlañca, pasādaṃ dhammadassanaṃ;
Anuyuñjetha medhāvī, saraṃ buddhāna sāsana’’nti.
4. Daliddasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]
260. Catutthe manussadaliddoti manussaadhano. Manussakapaṇoti manussakāruññataṃ patto. Manussavarākoti manussalāmako. Tatrāti tasmiṃ ṭhāne, tasmiṃ vā atirocane. Ujjhāyantīti avajjhāyanti lāmakato cintenti. Khiyantīti kathenti pakāsenti. Vipācentīti tattha tattha kathenti vitthārenti. Eso kho mārisāti ettha ayamanupubbikathā – so kira anuppanne buddhe kāsiraṭṭhe bārāṇasirājā hutvā samussitaddhajapaṭākanānālaṅkārena suṭṭhu alaṅkataṃ nagaraṃ padakkhiṇaṃ akāsi attano sirisampattiyā samākaḍḍhitanettena janakāyena samullokiyamāno. Tasmiñca samaye eko paccekabuddho gandhamādanapabbatā āgamma tasmiṃ nagare piṇḍāya carati, santindriyo santamānaso uttamadamathasamannāgato. Mahājanopi rājagataṃ cittīkāraṃ pahāya paccekabuddhameva olokesi. Rājā – ‘‘idāni imasmiṃ janakāye ekopi maṃ na oloketi. Kiṃ nu kho eta’’nti? Olokento paccekabuddhaṃ addasa. Sopi paccekabuddho mahallako hoti pacchimavaye ṭhito. Cīvarānipissa jiṇṇāni, tato tato suttāni gaḷanti. Rañño satasahassādhikāni dve asaṅkhyeyyāni pūritapāramiṃ paccekabuddhaṃ disvā cittapasādamattaṃ vā hatthaṃ pasāretvā vandanamattaṃ vā nāhosi. So rājā ‘‘pabbajito maññe esa usūyāya maṃ na oloketī’’ti kujjhitvā ‘‘kvāyaṃ kuṭṭhicīvarāni pāruto’’ti niṭṭhubhitvā pakkāmi. Tassa kammassa vipākena mahāniraye nibbattitvā vipākāvasesena manussalokaṃ āgacchanto rājagahe paramakapaṇāya itthiyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi. Gahitakālato paṭṭhāya sā itthī kañjikamattampi udarapūraṃ nālattha. Tassa kucchigatasseva kaṇṇanāsā vilīnā, saṅkhapalitakuṭṭhī hutvā mātukucchito nikkhanto. Mātāpitaro nāma dukkarakārikā honti, tenassa mātā yāva kapālaṃ gahetvā carituṃ na sakkoti, tāvassa kañjikampi udakampi āharitvā adāsi. Bhikkhāya carituṃ samatthakāle panassa kapālaṃ hatthe datvā ‘‘paññāyissasi sakena kammenā’’ti pakkāmi.
Athassa tato paṭṭhāya sakalasarīrato maṃsāni chijjitvā chijjitvā patanti, yūsaṃ paggharati, mahāvedanā vattanti. Yaṃ yaṃ racchaṃ nissāya sayati, sabbarattiṃ mahāravena ravati. Tassa kāruññaparidevitasaddena sakalavīthiyaṃ manussā sabbarattiṃ niddaṃ na labhanti. Tassa tato paṭṭhāya sukhasayite pabodhetīti suppabuddhotveva nāmaṃ udapādi. Athāparena samayena bhagavati rājagahaṃ sampatte nāgarā satthāraṃ nimantetvā nagaramajjhe mahāmaṇḍapaṃ katvā dānaṃ adaṃsu. Suppabuddhopi kuṭṭhī gantvā dānaggamaṇḍapassa avidūre nisīdi. Nāgarā buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena parivisantā tassāpi yāgubhattaṃ adaṃsu. Tassa paṇītabhojanaṃ bhuttassa cittaṃ ekaggaṃ ahosi. Satthā bhattakiccāvasāne anumodanaṃ katvā saccāni dīpesi, suppabuddho nisinnaṭṭhāne nisinnova desanānusārena ñāṇaṃ pesetvā sotāpattiphale patiṭṭhito. Satthā uṭṭhāya vihāraṃ gato. Sopi cumbaṭaṃ āruyha kapālamādāya daṇḍamolubbha attano vasanaṭṭhānaṃ gacchanto vibbhantāya gāviyā jīvitā voropito mattikapātiṃ bhinditvā suvaṇṇapātiṃ paṭilabhanto viya dutiyacittavāre devaloke nibbatto attano puññaṃ nissāya aññe deve atikkamma virocittha. Taṃ kāraṇaṃ dassento sakko devānamindo eso kho mārisātiādimāha.
Saddhāti maggenāgatasaddhā. Sīlañca yassa kalyāṇanti kalyāṇasīlaṃ nāma ariyasāvakassa ariyakantasīlaṃ vuccati. Tattha kiñcāpi ariyasāvakassa ekasīlampi akantaṃ nāma natthi, imasmiṃ panatthe bhavantarepi appahīnaṃ pañcasīlaṃ adhippetaṃ. Catutthaṃ.