Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || HIỂU VÀ KHÔNG THƯƠNG - Kinh Vô Ngã (Anattasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || HIỂU VÀ KHÔNG THƯƠNG - Kinh Vô Ngã (Anattasuttaṃ)

Thứ ba, 11/06/2024, 09:05 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 11.6.2024

HIỂU VÀ KHÔNG THƯƠNG

Kinh Vô Ngã (Anattasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần II-Phẩm A-La-Hán (S,iii,68)

Một trong những cái khổ lớn nhất của cuộc sống là sự bất như ý. Chúng ta thường buồn giận khi gặp sự việc xảy ra ngoài ý muốn. Trong một góc nhìn khác, sự đau khổ thường do ý muốn khác hơn bản chất tự nhiên. Từ thái độ đòi hỏi chuyển sang sự chấp nhận. Từ ảo tưởng về một thế giới theo ước muốn, trở thành nhận diện bản chất cố hữu của các pháp. Từ sự chấp sai biến thành tuệ giác nhận rõ năm uẩn “chẳng phải của ta, chẳng phải là ta, chẳng phải là tự ngã của ta”. Từ sự bám víu, vọng động tâm tư được thanh thản với sự vắng mặt của ái chấp, mạn chấp và kiến chấp.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ.

Atha kho aññataro bhikkhu …pe… ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: “sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu …pe… ātāpī pahitatto vihareyyan”ti.

Nhân duyên ở Sāvatthi.

Bấy giờ, có một vị tỳ khưu đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Vì tỳ khưu ấy bạch rằng:

—Bạch Đức Thế Tôn, tốt lành thay Đức Thế Tôn thuyết pháp cô đọng súc tích cho con! Sau khi nghe thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng.

“Yo kho, bhikkhu, anattā; tatra te chando pahātabbo”ti.

“Aññātaṃ, bhagavā, aññātaṃ, sugatā”ti.

—Này Tỳ khưu, hãy đoạn trừ ước muốn với những gì vô ngã.

—Bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

“Yathā kathaṃ pana tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsī”ti?

“Rūpaṃ kho, bhante, anattā; tatra me chando pahātabbo.

Vedanā …

saññā …

saṅkhārā …

viññāṇaṃ anattā; tatra me chando pahātabbo.

Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.

—Này Tỳ khưu, Thầy hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi điều Ta nói một cách ngắn gọn như thế nào?

—Bạch Đức Thế Tôn, sắc là vô ngã, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (sắc); thọ là vô ngã, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (thọ); tưởng là vô ngã, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (tưởng); hành là vô ngã, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (hành); thức là vô ngã, con cần đoạn trừ ước muốn đối với (thức).

“Sādhu sādhu, bhikkhu. Sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsi.

Rūpaṃ kho, bhikkhu, anattā; tatra te chando pahātabbo.

Vedanā …

saññā …

saṅkhārā …

viññāṇaṃ anattā; tatra te chando pahātabbo.

—Tốt lắm, tốt lắm, này Tỳ khưu với lời nói cô đọng của Ta, Thầy đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là vô ngã, nên đoạn trừ ước muốn đối với (sắc); thọ là vô ngã, nên đoạn trừ ước muốn đối với (thọ); tưởng là vô ngã, nên đoạn trừ ước muốn đối với (tưởng); hành là vô ngã, nên đoạn trừ ước muốn đối với (hành); thức là vô ngã, nên đoạn trừ ước muốn đối với (thức).

Imassa kho, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti …pe…

aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosīti.

Rồi vị tỳ khưu ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía phải hướng về Ngài rồi ra đi.

Và vị tỳ khưu ấy sống một mình, tịnh cư, nhiệt tâm, tinh cần, không xao lãng, không bao lâu chứng được mục đích mà một thiện gia nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ thế tục, sống không gia đình hướng đến là vô thượng cứu cánh phạm hạnh. Vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Vị tỳ khưu ấy đã trở thành một trong những vị vô sanh ứng cúng.

 

 

Chú Thích

Vô ngã – anatta – là một trong những ý nghĩa quan trọng, nhưng khó áp dụng trong cuộc sống. Trước hết, tất cả sự hiện hữu dù vật chất hay tâm thức là sự kết cấu của nhiều thành tố, nên không thể nói là hoàn toàn được quyết định bởi một thành tố duy nhất, dù đó là thượng đế hoặc tự ngã. Một ý nghĩa khác là cái gì vô thường, bất toàn là vô ngã vì không theo ý muốn. Vô ngã cũng mang ý nghĩa không chủ quyền, khi tất cả thành tố có tự tánh riêng như một công ty có nhiều phần hùn, thì không thể nói là công ty là thuộc cá nhân nào.

Một đặc điểm của sự tu tập trong Phật Pháp, về pháp quán vô ngã là sự phân chia ra thành từng phần thay vì nói chung về con người, thì quán chiếu sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Có thể nói đây là phương cách “bẻ đũa từng chiếc thay vì nguyên bó đũa”.

Bản chất vô ngã nếu được nhận thức và lãnh hội đầy đủ, sẽ giúp hành giả giảm thiểu và đoạn trừ ái chấp, mạn chấp và kiến chấp. Đây cũng là nền tảng để đạt đến cảnh giới an tịnh vô cầu vô chấp của không tánh (suññatā).

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

6. Anattasuttaṃ

68. Sāvatthinidānaṃ.

Atha kho aññataro bhikkhu …pe… ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca: “sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu …pe… ātāpī pahitatto vihareyyan”ti.

“Yo kho, bhikkhu, anattā; tatra te chando pahātabbo”ti.

“Aññātaṃ, bhagavā, aññātaṃ, sugatā”ti.

“Yathā kathaṃ pana tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsī”ti?

“Rūpaṃ kho, bhante, anattā; tatra me chando pahātabbo.

Vedanā …

saññā …

saṅkhārā …

viññāṇaṃ anattā; tatra me chando pahātabbo.

Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.

“Sādhu sādhu, bhikkhu. Sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsi.

Rūpaṃ kho, bhikkhu, anattā; tatra te chando pahātabbo.

Vedanā …

saññā …

saṅkhārā …

viññāṇaṃ anattā; tatra te chando pahātabbo.

Imassa kho, bhikkhu, mayā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti …pe…

aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosīti.

Chaṭṭhaṃ.

Ý kiến bạn đọc