Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | HIỆN TƯỢNG GIỚI KHÔNG CÓ NHÂN NGÃ BỈ THỬ - Kinh Vô Minh Là Duyên (Avijjāpaccayasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | HIỆN TƯỢNG GIỚI KHÔNG CÓ NHÂN NGÃ BỈ THỬ - Kinh Vô Minh Là Duyên (Avijjāpaccayasuttaṃ)

Thứ ba, 14/03/2023, 18:15 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 14.3.2023

 


HIỆN TƯỢNG GIỚI KHÔNG CÓ NHÂN NGÃ BỈ THỬ

Kinh Vô Minh Là Duyên (Avijjāpaccayasuttaṃ)

Tập II – Thiên Nhân Duyên

Chương I. Tương Ưng Nhân Duyên (b) - Phẩm Kalāra – Vị Sát Đế Lỵ (S. ii, 60)

Cái nhìn thường tình vốn từ sự giả danh dẫn đến chấp ngã. Thí dụ khi nói “ông Nguyễn Văn A buồn khổ” thì tên gọi Nguyễn Văn A vốn là một định danh mà cũng là giả danh chứ không là một thực hữu. Nếu nói Nguyễn Văn A và sự buồn khổ là hai thực hữu hay là một đều không xác đáng. Câu nói “chỉ có cảm thọ chứ không người cảm thọ” chỉ cho thế giới hiện tượng vốn không nhân ngã bỉ thử. Điều nầy không đơn thuần là cách nói mà còn gắn với kiến chấp có, chấp không đối một tự ngã bất biến. Cả hai quan niệm thường kiến và đoạn kiến đều phá vỡ giá trị của sự tu tập. Vì nếu chết là hết thì tu tập vô nghĩa. Mà nếu có “một linh hồn bất biến” thì cần gì phải tu tập?

Sāvatthiyaṃ viharati...pe... ‘‘avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā; saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī’’ti. Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘‘katamaṃ nu kho, bhante, jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti? ‘No kallo pañho’ti bhagavā avoca, ‘katamaṃ jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññaṃ jarāmaraṇaṃ aññassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti, iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘jātipaccayā jarāmaraṇa’’’nti.

Ngự tại Sāvatthī...

-- Này chư Tỳ Khưu, do duyên vô minh nên có hành; do duyên hành nên có thức... như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Được nói như vậy, một tỳ khưu bạch Đức Thế Tôn:

-- Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là già chết? Và già chết có đối với ai?

Đức Thế Tôn trả lời:

-- Này chư Tỳ Khưu, đó là câu hỏi không xác đáng. Này Tỷ-kheo, dù là một người nói: “Thế nào là già chết? Và già chết có đối với ai?”, hoặc nói: “Già chết khác với người có già chết” thì hai cách nói mang ý nghĩa giống nhau dù khác về cách hành văn.

Nếu có kiến chấp: “sinh mạng và thân xác là một” hay “sinh mạng và thân xác là khác” thì không có tu tập phạm hạnh. Tránh hai cực đoan nầy, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo: “Do duyên sanh nên có già chết”

‘‘Katamā nu kho, bhante, jāti, kassa ca panāyaṃ jātī’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katamā jāti, kassa ca panāyaṃ jātī’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññā jāti aññassa ca panāyaṃ jātī’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘bhavapaccayā jātī’’’ti.

-- Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là sanh? Và sanh có đối với ai?

Đức Thế Tôn trả lời:

-- Này chư Tỳ Khưu, đó là câu hỏi không xác đáng. Này Tỷ-kheo, dù là một người nói: “Thế nào là sanh? Và sanh có đối với ai?”, hoặc nói: “sanh khác với người thọ sanh” thì hai cách nói mang ý nghĩa giống nhau dù khác về cách hành văn.

Nếu có kiến chấp: “sinh mạng và thân xác là một” hay “sinh mạng và thân xác là khác” thì không có tu tập phạm hạnh. Tránh hai cực đoan nầy, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo: “Do duyên hữu nên có sanh”.

‘‘Katamo nu kho, bhante, bhavo, kassa ca panāyaṃ bhavo’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katamo bhavo, kassa ca panāyaṃ bhavo’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘añño bhavo aññassa ca panāyaṃ bhavo’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti; aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘upādānapaccayā bhavo’ti...pe... ‘taṇhāpaccayā upādānanti... vedanāpaccayā taṇhāti... phassapaccayā vedanāti... saḷāyatanapaccayā phassoti... nāmarūpapaccayā saḷāyatananti... viññāṇapaccayā nāmarūpanti... saṅkhārapaccayā viññāṇa’’’nti.

-- Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là hữu? Và hữu có đối với ai?

Đức Thế Tôn trả lời:

-- Này chư Tỳ Khưu, đó là câu hỏi không xác đáng. Này Tỷ-kheo, dù là một người nói: “Thế nào là hữu? Và hữu có đối với ai?”, hoặc nói: “ Hữu khác với người có hữu” thì hai cách nói mang ý nghĩa giống nhau dù khác về cách hành văn.

Nếu có kiến chấp: “sinh mạng và thân xác là một” hay “sinh mạng và thân xác là khác” thì không có tu tập phạm hạnh. Tránh hai cực đoan nầy, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo: “Do duyên thủ nên có hữu”

... "Do duyên ái nên có thủ"

... "Do duyên thọ nên có ái"

... "Do duyên xúc nên có thọ".

... "Do duyên sáu xứ nên có xúc".

... "Do duyên danh sắc nên có sáu xứ".

... "Do duyên thức nên có danh sắc".

... "Do duyên hành nên có thức".

‘‘Katame nu kho, bhante, saṅkhārā, kassa ca panime saṅkhārā’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katame saṅkhārā kassa ca panime saṅkhārā’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññe saṅkhārā aññassa ca panime saṅkhārā’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti; aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘avijjāpaccayā saṅkhārā’’’ti.

-- Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là hành? Và hành có đối với ai?

Đức Thế Tôn trả lời:

-- Này chư Tỳ Khưu, đó là câu hỏi không xác đáng. Này Tỷ-kheo, dù là một người nói: “Thế nào là hành? Và hành có đối với ai?”, hoặc nói: “ hành khác với người có hành” thì hai cách nói mang ý nghĩa giống nhau dù khác về cách hành văn.

Nếu có kiến chấp: “sinh mạng và thân xác là một” hay “sinh mạng và thân xác là khác” thì không có tu tập phạm hạnh. Tránh hai cực đoan nầy, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo: “Do duyên vô minh nên có hành”

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. ‘Katamaṃ jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇaṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jarāmaraṇaṃ, aññassa ca panidaṃ jarāmaraṇaṃ’ iti vā, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ’ iti vā. Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammāni.

-- Này chư Tỳ Khưu, do sự tan biến, đoạn diệt hoàn toàn vô minh nên các xảo ngữ, hý luận, kiến chấp liên hệ đến các vấn đề như: “Thế nào là già chết? Và già chết có đối với ai?”, hoặc nói: “Già chết khác với người có già chết” hay nói: “sinh mạng và thân xác là một” hay “sinh mạng và thân xác là khác” đều được chấm dứt như cây ta la cắt đứt tận gốc không thể hiện hữu hay sanh khởi trong tương lai.

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. ‘Katamā jāti, kassa ca panāyaṃ jāti’ iti vā, ‘aññā jāti, aññassa ca panāyaṃ jāti’ iti vā, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ’ iti vā. Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammāni.

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. Katamo bhavo...pe... katamaṃ upādānaṃ... katamā taṇhā... katamā vedanā... katamo phasso... katamaṃ saḷāyatanaṃ... katamaṃ nāmarūpaṃ... katamaṃ viññāṇaṃ...pe....

-- Này chư Tỳ Khưu, do sự tan biến, đoạn diệt hoàn toàn vô minh nên các xảo ngữ, hý luận, kiến chấp liên hệ đến các vấn đề như: “Thế nào là sanh? Và sanh có đối với ai?”, hoặc nói: “sanh khác với người có thọ sanh” hay nói: “sinh mạng và thân xác là một” hay “sinh mạng và thân xác là khác” đều được chấm dứt như cây ta la cắt đứt tận gốc không thể hiện hữu hay sanh khởi trong tương lai.

Thế nào là hữu...

Thế nào là thủ...

Thế nào là ái...

Thế nào là thọ...

Thế nào là xúc...

Thế nào là sáu xứ...

Thế nào là danh sắc...

Thế nào là thức...

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. ‘Katame saṅkhārā, kassa ca panime saṅkhārā’ iti vā, ‘aññe saṅkhārā, aññassa ca panime saṅkhārā’ iti vā, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ, aññaṃ sarīraṃ’ iti vā. Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammānī’’ti. Pañcamaṃ.

-- Này chư Tỳ Khưu, do sự tan biến, đoạn diệt hoàn toàn vô minh nên các xảo ngữ, hý luận, kiến chấp liên hệ đến các vấn đề như: “Thế nào là hành? Và hành có đối với ai?”, hoặc nói: “hành khác với người có hành” hay nói: “sinh mạng và thân xác là một” hay “sinh mạng và thân xác là khác” đều được chấm dứt như cây ta la cắt đứt tận gốc không thể hiện hữu hay sanh khởi trong tương lai.

Chú Thích

Sớ giải ghi rõ hai câu hỏi “Thế nào là già chết? Và già chết có đối với ai?” câu thứ nhất hoàn toàn thích đáng nhưng vì đi chung với câu thứ hai hàm ý “Ai già chết” thì có vấn đề nên trọn câu hỏi với hai mệnh đề đều bị phủ quyết. Sớ giải đưa ra thí dụ một đĩa bằng vàng đựng thực phẩm thơm ngon nhưng dính một chút phẩn thì không thể ăn được.

Cùng với ý nghĩa về duyên khởi, một điểm khác được nêu lên là tất cả chỉ là hiện tượng không có nhân ngã bỉ thử, nói cách khác: “có chấp thủ chứ không có người chấp thủ, có cảm thọ chứ không có người cảm thọ”, hoặc “chấp thủ và người chấp thủ là một hay hai”, “cảm thọ và người cảm thọ là một hay hai”… tất cả đều đặt sai vấn đế.

Theo Sớ giải khi nói rằng: “Sinh mạng và thân xác là một (taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ)” thì rơi vào đoạn kiến vì điều nầy hàm nghĩa khi xác thân hoại diệt thì sự hiện hữu chấm dứt hoàn toàn. Khi nói “Sinh mạng và xác thân là khác (aññaṃ jīvaṃ, aññaṃ sarīraṃ) thì rơi vào đoạn kiến do chấp thủ dù xác thân hoại diệt nhưng linh hồn bất tử vẫn còn. Hai quan niệm nầy khiến sự tu tập phạm hạnh trở thành vô nghĩa vì chết là hết thì tu tập làm gì? Có nếu linh hồn bất biến thì có cần gì phải tu tập?. Đây là mâu thuẩn lớn nhất của các tôn giáo đối khi nói về sự tu dưỡng và bản ngã hằng hữu.

Ba từ visūkāyika, visevita, vipphandita trong câu yāni ’ssa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici theo Sớ giải đều chỉ cho tà kiến. Visūkāyika là phiếm luận ngăn ngại bản thân như gai nhọn (kaṇṭak). Visevita được hiểu đối lập với chánh kiến (sammādiṭṭhiyā vinivijjhanaṭṭhena). Vipphandita được giải thích là chấp chặt vào thường kiến hay đoạn kiến. Chuyển dịch là xảo ngữ, hý luận, kiến chấp.

Cũng như trường hợp của nhiều bài kinh khác, khi Đức Phật giảng dạy cho tỳ khưu, Ngài nêu lên từng phần vừa khẳng định sự nhất quán đối với các chi pháp đồng thời có những phân đoạn khế hợp với trí tuệ quán chiếu của một số các tỳ khưu trong thính chúng. Bản dịch y cứ theo chánh kinh vốn đã giản lược sự trùng lập để dễ nhớ và lãnh hội.

Tỳ khưu Giác Đẳng soạn dịch

5. Avijjāpaccayasuttaṃ

35. Sāvatthiyaṃ viharati...pe... ‘‘avijjāpaccayā, bhikkhave, saṅkhārā; saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī’’ti. Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘‘katamaṃ nu kho, bhante, jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti? ‘No kallo pañho’ti bhagavā avoca, ‘katamaṃ jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññaṃ jarāmaraṇaṃ aññassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’nti, iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘jātipaccayā jarāmaraṇa’’’nti.

‘‘Katamā nu kho, bhante, jāti, kassa ca panāyaṃ jātī’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katamā jāti, kassa ca panāyaṃ jātī’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññā jāti aññassa ca panāyaṃ jātī’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘bhavapaccayā jātī’’’ti.

‘‘Katamo nu kho, bhante, bhavo, kassa ca panāyaṃ bhavo’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katamo bhavo, kassa ca panāyaṃ bhavo’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘añño bhavo aññassa ca panāyaṃ bhavo’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti; aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘upādānapaccayā bhavo’ti...pe... ‘taṇhāpaccayā upādānanti... vedanāpaccayā taṇhāti... phassapaccayā vedanāti... saḷāyatanapaccayā phassoti... nāmarūpapaccayā saḷāyatananti... viññāṇapaccayā nāmarūpanti... saṅkhārapaccayā viññāṇa’’’nti.

‘‘Katame nu kho, bhante, saṅkhārā, kassa ca panime saṅkhārā’’ti? ‘‘No kallo pañho’’ti bhagavā avoca, ‘‘‘katame saṅkhārā kassa ca panime saṅkhārā’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ‘aññe saṅkhārā aññassa ca panime saṅkhārā’ti iti vā, bhikkhu, yo vadeyya, ubhayametaṃ ekatthaṃ byañjanameva nānaṃ. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti; aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, bhikkhu, diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hoti. Ete te, bhikkhu, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti – ‘avijjāpaccayā saṅkhārā’’’ti.

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. ‘Katamaṃ jarāmaraṇaṃ, kassa ca panidaṃ jarāmaraṇaṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jarāmaraṇaṃ, aññassa ca panidaṃ jarāmaraṇaṃ’ iti vā, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ’ iti vā. Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammāni.

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. ‘Katamā jāti, kassa ca panāyaṃ jāti’ iti vā, ‘aññā jāti, aññassa ca panāyaṃ jāti’ iti vā, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ’ iti vā. Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammāni.

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. Katamo bhavo...pe... katamaṃ upādānaṃ... katamā taṇhā... katamā vedanā... katamo phasso... katamaṃ saḷāyatanaṃ... katamaṃ nāmarūpaṃ... katamaṃ viññāṇaṃ...pe....

‘‘Avijjāya tveva, bhikkhu, asesavirāganirodhā yānissa tāni visūkāyikāni visevitāni vipphanditāni kānici kānici. ‘Katame saṅkhārā, kassa ca panime saṅkhārā’ iti vā, ‘aññe saṅkhārā, aññassa ca panime saṅkhārā’ iti vā, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ’ iti vā, ‘aññaṃ jīvaṃ, aññaṃ sarīraṃ’ iti vā. Sabbānissa tāni pahīnāni bhavanti ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni āyatiṃ anuppādadhammānī’’ti. Pañcamaṃ.

5. Avijjāpaccayasuttavaṇṇanā

35. Pañcame samudayo hotīti satthā idheva desanaṃ osāpesi. Kiṃkāraṇāti? Diṭṭhigatikassa okāsadānatthaṃ. Tassañhi parisati upārambhacitto diṭṭhigatiko atthi, so pañhaṃ pucchissati, athassāhaṃ vissajjessāmīti tassa okāsadānatthaṃ desanaṃ osāpesi. No kallo pañhoti ayutto pañho. Duppañho esoti attho. Nanu ca ‘‘katamaṃ nu kho, bhante, jarāmaraṇa’’nti? Idaṃ supucchitanti. Kiñcāpi supucchitaṃ, yathā pana satasahassagghanike suvaṇṇathāle vaḍḍhitassa subhojanassa matthake āmalakamattepi gūthapiṇḍe ṭhapite sabbaṃ bhojanaṃ dubbhojanaṃ hoti chaḍḍetabbaṃ, evameva ‘‘kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’’nti? Iminā sattūpaladdhivādapadena gūthapiṇḍena taṃ bhojanaṃ dubbhojanaṃ viya ayampi sabbo duppañhova jātoti.

Brahmacariyavāsoti ariyamaggavāso. Taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti yassa hi ayaṃ diṭṭhi, so ‘‘jīve ucchijjamāne sarīraṃ ucchijjati, sarīre ucchijjante jīvitaṃ ucchijjatī’’ti gaṇhāti. Evaṃ gaṇhato sā diṭṭhi ‘‘satto ucchijjatī’’ti gahitattā ucchedadiṭṭhi nāma hoti. Sace pana saṅkhārāva uppajjanti ceva nirujjhanti cāti gaṇheyya, sāsanāvacarā sammādiṭṭhi nāma bhaveyya. Ariyamaggo ca nāmeso vaṭṭaṃ nirodhento vaṭṭaṃ samucchindanto uppajjati, tadeva taṃ vaṭṭaṃ ucchedadiṭṭhiyā gahitākārassa sambhave sati vināva maggabhāvanāya nirujjhatīti maggabhāvanā niratthakā hoti. Tena vuttaṃ ‘‘brahmacariyavāso na hotī’’ti.

Dutiyanaye aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti yassa ayaṃ diṭṭhi, so ‘‘sarīraṃ idheva ucchijjati, na jīvitaṃ, jīvitaṃ pana pañjarato sakuṇo viya yathāsukhaṃ gacchatī’’ti gaṇhāti. Evaṃ gaṇhato sā diṭṭhi ‘‘imasmā lokā jīvitaṃ paralokaṃ gata’’nti gahitattā sassatadiṭṭhi nāma hoti. Ayañca ariyamaggo tebhūmakavaṭṭaṃ vivaṭṭento uppajjati, so ekasaṅkhārepi nicce dhuve sassate sati uppannopi vaṭṭaṃ vivaṭṭetuṃ na sakkotīti maggabhāvanā niratthakā hoti. Tena vuttaṃ ‘‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā bhikkhu diṭṭhiyā sati brahmacariyavāso na hotī’’ti.

Visūkāyikānītiādi sabbaṃ micchādiṭṭhivevacanameva. Sā hi sammādiṭṭhiyā vinivijjhanaṭṭhena visūkamiva attānaṃ āvaraṇato visūkāyikaṃ, sammādiṭṭhiṃ ananuvattitvā tassā virodhena pavattanato visevitaṃ, kadāci ucchedassa kadāci sassatassa gahaṇato virūpaṃ phanditaṃ vipphanditanti vuccati. Tālāvatthukatānīti tālavatthu viya katāni, puna aviruhaṇaṭṭhena matthakacchinnatālo viya samūlaṃ tālaṃ uddharitvā tassa patiṭṭhitaṭṭhānaṃ viya ca katānīti attho. Anabhāvaṃkatānīti anuabhāvaṃ katānīti. Pañcamaṃ.

Ý kiến bạn đọc