Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - HIỂM HOẠ KHÔNG AI TRÁNH THOÁT - Kinh Ngụ Ngôn Hòn Núi (Pabbatūpamasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - HIỂM HOẠ KHÔNG AI TRÁNH THOÁT - Kinh Ngụ Ngôn Hòn Núi (Pabbatūpamasuttaṃ)

Thứ bảy, 29/01/2022, 19:36 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 29.1.2022


HIỂM HOẠ KHÔNG AI TRÁNH THOÁT

Kinh Ngụ Ngôn Hòn Núi (Pabbatūpamasuttaṃ)

(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ BA) (S.i, 100)

Những tiến bộ to lớn của khoa học kỹ thuật ngày nay khiến con người sống lâu hơn, sống tiện nghi hơn nhưng hoàn toàn không ngăn được lão hoá nói gì đến cái chết. Tất cả chúng sanh đều có chung cuộc là cái chết. Đó là thông điệp của sự thật. Con người bất lực khi nhận ra rằng binh hùng, tướng mạnh, bạc tiền không giải quyết được già và chết. Đức Phật không đề cập sự trạng nầy với thái độ tiêu cực mà Ngài dạy rõ: khi biết vậy nên tu thân, hành thiện để sống lợi lạc đời nầy và đời sau. Phải đọc kỹ và đọc trọn vẹn ngụ ngôn về núi đá mới nhận ra nét đặc thù của Phật Pháp: không chối bỏ sự thật về cuộc sống cũng không mang thái độ tiêu cực với sự thật phũ phàng. Người trí không ngây thơ đối với thảm hoạ không tránh thoát được mà cũng không ủ rũ thúc thủ thở than mà biết hành động hợp lý.


Sāvatthinidānaṃ.

Tại Sāvatthi.

Ekamantaṃ nisinnaṃ kho rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhagavā etadavoca –

Vua Pasenadi xứ Kosala đang ngồi một bên. Thế Tôn nói với vua :

‘‘handa, kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divā divassā’’ti?

-- Ðại vương đi từ đâu lại vào giữa trưa thế nầy?

‘‘Yāni tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ issariyamadamattānaṃ kāmagedhapariyuṭṭhitānaṃ janapadatthāvariyappattānaṃ mahantaṃ pathavimaṇḍalaṃ abhivijiya ajjhāvasantānaṃ rājakaraṇīyāni bhavanti, tesu khvāhaṃ, etarahi ussukkamāpanno’’ti.

Bạch Thế Tôn, con vừa xử lý một số việc triều chính mà các vị vua sát đế lỵ đã làm lễ quán đảnh thường làm. Các vua chúa đắm chìm trong vương quyền, thọ hưởng dục dục lạc, an dân trị quốc, mở mang bờ cõi.

‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha te puriso āgaccheyya puratthimāya disāya saddhāyiko paccayiko. So taṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya – ‘yagghe, mahārāja, jāneyyāsi, ahaṃ āgacchāmi puratthimāya disāya. Tatthaddasaṃ mahantaṃ pabbataṃ abbhasamaṃ sabbe pāṇe nippothento āgacchati.

Yaṃ te, mahārāja, karaṇīyaṃ, taṃ karohī’ti. Atha dutiyo puriso āgaccheyya pacchimāya disāya...pe... atha tatiyo puriso āgaccheyya uttarāya disāya...pe... atha catuttho puriso āgaccheyya dakkhiṇāya disāya saddhāyiko paccayiko. So taṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya – ‘yagghe mahārāja, jāneyyāsi, ahaṃ āgacchāmi dakkhiṇāya disāya. Tatthaddasaṃ mahantaṃ pabbataṃ abbhasamaṃ sabbe pāṇe nippothento āgacchati. Yaṃ te, mahārāja, karaṇīyaṃ taṃ karohī’ti. Evarūpe te, mahārāja, mahati mahabbhaye samuppanne dāruṇe manussakkhaye [manussakāye (ka.)] dullabhe manussatte kimassa karaṇīya’’nti?

Này Đại vương, Đại vương nghĩ thé nào nếu có người tâm phúc đáng tin cậy đến từ hướng đông và tâu rằng: Tâu Hoàng thượng, hạ thần đến từ phương đông có một hòn núi lớn cao tận mây xanh đang di chuyển đến đây và nghiền nát các sinh vật. Đại vương hãy làm những gì cần thiết. Rồi có người tâm phúc đáng tin cậy thứ hai đến từ hướng nam … Rồi có người tâm phúc đáng tin cậy thứ hai đến từ hướng tây … Rồi có người tâm phúc đáng tin cậy thứ hai đến từ hướng bắc tâu rằng: Tâu Hoàng thượng, hạ thần đến từ hướng bắc có một hòn núi lớn cao tận mây xanh đang di chuyển đến đây và nghiền nát các sinh vật. Đại vương hãy làm những gì cần thiết.

Này Đại vương, nếu đại hoạ như vậy xẩy ra, một sự diệt chủng của cả nhân loại trong khi được sanh làm người là điều khó thì Đại vương sẽ làm gì?

‘‘Evarūpe me, bhante, mahati mahabbhaye samuppanne dāruṇe manussakkhaye dullabhe manussatte kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya aññatra samacariyāya aññatra kusalakiriyāya aññatra puññakiriyāyā’’ti?

Bạch Thế Tôn, nếu đại hoạ như vậy xẩy ra, một sự diệt chủng của cả nhân loại trong khi được sanh làm người là điều khó thì con có thể làm gì khác đươc ngoài việc sống y Pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức?

‘‘Ārocemi kho te, mahārāja, paṭivedemi kho te, mahārāja, adhivattati kho taṃ, mahārāja, jarāmaraṇaṃ. Adhivattamāne ce te, mahārāja, jarāmaraṇe kimassa karaṇīya’’nti?

Này Đại vương, ta báo cho Đại vương biết, ta tuyên bố Đại vương hay: già và chết đang tiến đến chinh phục Đại vương. Khi già và chết đang tiến đến chinh phục Đại vương thì Đại vương nên sẽ làm gì?

‘‘Adhivattamāne ca me, bhante, jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāya?

Bạch Thế Tôn, khi con bị già và chết chinh phục thì con có thể làm gì khác đươc ngoài việc sống y Pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức?

Yāni tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ issariyamadamattānaṃ kāmagedhapariyuṭṭhitānaṃ janapadatthāvariyappattānaṃ mahantaṃ pathavimaṇḍalaṃ abhivijiya ajjhāvasantānaṃ hatthiyuddhāni bhavanti; tesampi, bhante, hatthiyuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe.

Yānipi tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ...pe... ajjhāvasantānaṃ assayuddhāni bhavanti...pe... rathayuddhāni bhavanti ...pe... pattiyuddhāni bhavanti; tesampi, bhante, pattiyuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe.

Bạch Thế Tôn, những vị vua sát đế lỵ đã làm lễ quán đảnh đắm chìm trong vương quyền, thọ hưởng dục dục lạc, an dân trị quốc, mở mang bờ cõi thường dấn thân vào những can qua với tượng binh.., mã binh…, xa binh…, bộ binh nhưng không có chỗ nương, không có biện pháp đối sách nào khi già và chết tiến đến chinh phục.

Santi kho pana, bhante, imasmiṃ rājakule mantino mahāmattā, ye pahonti [yesaṃ honti (ka.)] āgate paccatthike mantehi bhedayituṃ. Tesampi, bhante, mantayuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe.

Bạch Thế Tôn, trong vương quốc nầy có những người tinh thông huyền thuật với khả năng tiêu diệt kẻ địch tấn công nhưng không có chỗ nương, không có biện pháp đối sách nào khi già và chết tiến đến chinh phục.

Saṃvijjati kho pana, bhante, imasmiṃ rājakule pahūtaṃ hiraññasuvaṇṇaṃ bhūmigatañceva vehāsaṭṭhañca, yena mayaṃ pahoma āgate paccatthike dhanena upalāpetuṃ. Tesampi, bhante, dhanayuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe.

Bạch Thế Tôn, trong vương quốc nầy có vàng, bạc cất giữ trong các kho hay hầm chứa. Bằng vận dụng kinh tế có khả năng tiêu diệt kẻ địch tấn công nhưng không có chỗ nương, không có biện pháp đối sách nào khi già và chết tiến đến chinh phục.

Adhivattamāne ca me, bhante, jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāyā’’ti?

Bạch Thế Tôn, khi con bị già và chết chinh phục thì con có thể làm gì khác đươc ngoài việc sống y Pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức?

‘‘Evametaṃ, mahārāja, evametaṃ, mahārāja! Adhivattamāne jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāyā’’ti?

Quả thật vậy, này Đại vương. Quả thật vậy. Khi Đại vương bị già và chết chinh phục thì có thể làm gì khác đươc ngoài việc sống y Pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức!

Idamavoca bhagavā...pe... satthā –

Sau khi dạy như vậy bậc Ðạo Sư nói thêm:

‘‘Yathāpi selā vipulā,

nabhaṃ āhacca pabbatā;

Samantānupariyāyeyyuṃ,

nippothento catuddisā.

‘‘Evaṃ jarā ca maccu ca,

adhivattanti pāṇine;

Khattiye brāhmaṇe vesse,

sudde caṇḍālapukkuse;

Na kiñci parivajjeti,

sabbamevābhimaddati.

‘‘Na tattha hatthīnaṃ bhūmi,

na rathānaṃ na pattiyā;

Na cāpi mantayuddhena,

sakkā jetuṃ dhanena vā.

‘‘Như núi với đá tảng

Cao lớn tận mây xanh

Tiến đến từ mọi phía

Nghiền nát cả bốn phương.

‘‘Cũng vậy, già và chết

Chinh phục mọi chúng sanh

Tất cả sát đế lỵ,

Bà la môn, phệ xá

Thủ đà, chiên đà la

Hay lao công quét dọn

Không ai trách thoát đườc

Đều bị nghiền nát cả

Không có tượng binh nào,

Hay xa binh, bộ binh

Hoặc huyền thuật, bạc vàng

Có thể đánh bạt được

Cái già và cái chết.

‘‘Tasmā hi paṇḍito poso,

sampassaṃ atthamattano;

Buddhe dhamme ca saṅghe ca,

dhīro saddhaṃ nivesaye.

Nên chi bậc hiền trí

Thấy lợi lạc bản thân

Kiên định lòng tịnh tín

Nơi Phật, Pháp và Tăng.

‘‘Yo dhammaṃ cari kāyena,

vācāya uda cetasā;

Idheva naṃ pasaṃsanti,

pecca sagge pamodatī’’ti.

Ai sống với Chánh pháp

Bằng thân, khẩu và ý

Ðời này được ca ngợi

Ðời sau hưởng thiên lạc.


‘‘Yathāpi selā vipulā Giống như những khối đá vĩ đại
nabhaṃ āhacca pabbatā núi cao tận tầng mây
Samantānupariyāyeyyuṃ Tiến đến từ mọi phía
nippothento catuddisā nghiền nát cả bốn phương
‘‘Evaṃ jarā ca maccu ca cũng vậy già và chết
adhivattanti pāṇine chinh phục chúng sanh
Khattiye brāhmaṇe vesse sát đế lỵ, bà la môn, phệ xá
sudde caṇḍālapukkuse thủ đà, chiên đà la, lao công
Na kiñci parivajjeti Không chừa bất cứ ai
Sabbamevābhimaddati Tất cả đều bị nghiền nát
‘‘Na tattha hatthīnaṃ bhūmi tượng binh “không có cửa”
na rathānaṃ na pattiyā không xa binh, không bộ binh
Na cāpi mantayuddhena sakkā jetuṃ dhanena vā 

= Không huyền thuật, kinh tế có thể đánh bạt được.

‘‘Tasmā hi paṇḍito poso Chính do vậy bậc hiền trí
sampassaṃ atthamattano hiểu được lợi lạc thiết thực cho bản thân

Buddhe dhamme ca saṅghe ca dhīro saddhaṃ nivesaye

= Sáng suốt kiên định niềm tin ở Phật, Pháp, Tăng

‘‘Yo dhammaṃ cari kāyena vācāya uda cetasā

= ai hành trì chánh pháp với thân, ngữ, ý.

Idheva naṃ pasaṃsanti được ca ngợi trong đời nầy
pecca sagge pamodatī’’ti được hưởng thiên phước đời sau

Theo Sớ giải thuật ngữ dhammacariyā - hành trì chánh pháp là tạo mười phước hạnh (bố thí, trì giới, thiền định, cung kính, phục vụ, thuyết pháp, thính pháp, tuỳ hỷ phước, hồi hướng phước, vun bồi chánh kiến). Và cũng giải thích samacariya cũng mang ý nghĩa tương tự (…)

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

5. Pabbatūpamasuttaṃ [Mūla]

136. Sāvatthinidānaṃ. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘handa, kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divā divassā’’ti? ‘‘Yāni tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ issariyamadamattānaṃ kāmagedhapariyuṭṭhitānaṃ janapadatthāvariyappattānaṃ mahantaṃ pathavimaṇḍalaṃ abhivijiya ajjhāvasantānaṃ rājakaraṇīyāni bhavanti, tesu khvāhaṃ, etarahi ussukkamāpanno’’ti.

‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha te puriso āgaccheyya puratthimāya disāya saddhāyiko paccayiko. So taṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya – ‘yagghe, mahārāja, jāneyyāsi, ahaṃ āgacchāmi puratthimāya disāya. Tatthaddasaṃ mahantaṃ pabbataṃ abbhasamaṃ sabbe pāṇe nippothento āgacchati. Yaṃ te, mahārāja, karaṇīyaṃ, taṃ karohī’ti. Atha dutiyo puriso āgaccheyya pacchimāya disāya...pe... atha tatiyo puriso āgaccheyya uttarāya disāya...pe... atha catuttho puriso āgaccheyya dakkhiṇāya disāya saddhāyiko paccayiko. So taṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya – ‘yagghe mahārāja, jāneyyāsi, ahaṃ āgacchāmi dakkhiṇāya disāya. Tatthaddasaṃ mahantaṃ pabbataṃ abbhasamaṃ sabbe pāṇe nippothento āgacchati. Yaṃ te, mahārāja, karaṇīyaṃ taṃ karohī’ti. Evarūpe te, mahārāja, mahati mahabbhaye samuppanne dāruṇe manussakkhaye [manussakāye (ka.)] dullabhe manussatte kimassa karaṇīya’’nti?

‘‘Evarūpe me, bhante, mahati mahabbhaye samuppanne dāruṇe manussakkhaye dullabhe manussatte kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya aññatra samacariyāya aññatra kusalakiriyāya aññatra puññakiriyāyā’’ti?

‘‘Ārocemi kho te, mahārāja, paṭivedemi kho te, mahārāja, adhivattati kho taṃ, mahārāja, jarāmaraṇaṃ. Adhivattamāne ce te, mahārāja, jarāmaraṇe kimassa karaṇīya’’nti? ‘‘Adhivattamāne ca me, bhante, jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāya? Yāni tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ issariyamadamattānaṃ kāmagedhapariyuṭṭhitānaṃ janapadatthāvariyappattānaṃ mahantaṃ pathavimaṇḍalaṃ abhivijiya ajjhāvasantānaṃ hatthiyuddhāni bhavanti; tesampi, bhante, hatthiyuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. Yānipi tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ...pe... ajjhāvasantānaṃ assayuddhāni bhavanti...pe... rathayuddhāni bhavanti ...pe... pattiyuddhāni bhavanti; tesampi, bhante, pattiyuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. Santi kho pana, bhante, imasmiṃ rājakule mantino mahāmattā, ye pahonti [yesaṃ honti (ka.)] āgate paccatthike mantehi bhedayituṃ. Tesampi, bhante, mantayuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. Saṃvijjati kho pana, bhante, imasmiṃ rājakule pahūtaṃ hiraññasuvaṇṇaṃ bhūmigatañceva vehāsaṭṭhañca, yena mayaṃ pahoma āgate paccatthike dhanena upalāpetuṃ. Tesampi, bhante, dhanayuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. Adhivattamāne ca me, bhante, jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāyā’’ti?

‘‘Evametaṃ, mahārāja, evametaṃ, mahārāja! Adhivattamāne jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāyā’’ti? Idamavoca bhagavā...pe... satthā –

‘‘Yathāpi selā vipulā, nabhaṃ āhacca pabbatā;

Samantānupariyāyeyyuṃ, nippothento catuddisā.

‘‘Evaṃ jarā ca maccu ca, adhivattanti pāṇine [pāṇino (sī. syā. kaṃ. pī.)];

Khattiye brāhmaṇe vesse, sudde caṇḍālapukkuse;

Na kiñci [na kañci (?)] parivajjeti, sabbamevābhimaddati.

‘‘Na tattha hatthīnaṃ bhūmi, na rathānaṃ na pattiyā;

Na cāpi mantayuddhena, sakkā jetuṃ dhanena vā.

‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano;

Buddhe dhamme ca saṅghe ca, dhīro saddhaṃ nivesaye.

‘‘Yo dhammaṃ cari [dhammacārī (sī. syā. kaṃ. pī.)] kāyena, vācāya uda cetasā; Idheva naṃ pasaṃsanti, pecca sagge pamodatī’’ti.

5. Pabbatūpamasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

136. Pañcame muddhāvasittānanti khattiyābhisekena muddhani avasittānaṃ katābhisekānaṃ. Kāmagedhapariyuṭṭhitānanti kāmesu gedhena pariyuṭṭhitānaṃ abhibhūtānaṃ. Janapadatthāvariyappattānanti janapade thirabhāvappattānaṃ. Rājakaraṇīyānīti rājakammāni rājūhi kattabbakiccāni. Tesu khvāhanti tesu ahaṃ. Usukkamāpannoti byāpāraṃ āpanno. Esa kira rājā divasassa tikkhattuṃ bhagavato upaṭṭhānaṃ gacchati, antarāgamanāni bahūnipi honti. Tassa nibaddhaṃ gacchato balakāyo mahāpi hoti appopi. Athekadivasaṃ pañcasatā corā cintayiṃsu – ‘‘ayaṃ rājā avelāya appena balena samaṇassa gotamassa upaṭṭhānaṃ gacchati, antarāmagge naṃ gahetvā rajjaṃ gaṇhissāmā’’ti. Te andhavane nilīyiṃsu. Rājāno ca nāma mahāpuññā honti. Atha tesaṃyeva abbhantarato eko puriso nikkhamitvā rañño ārocesi. Rājā mahantaṃ balakāyaṃ ādāya andhavanaṃ parivāretvā te sabbe gahetvā andhavanato yāva nagaradvārā maggassa ubhosu passesu yathā aññamaññaṃ cakkhunā cakkhuṃ upanibandhitvā olokenti, evaṃ āsannāni sūlāni ropāpetvā sūlesu uttāsesi. Idaṃ sandhāya evamāha.

Atha satthā cintesi – ‘‘sacāhaṃ vakkhāmi, ‘mahārāja, mādise nāma sammāsambuddhe dhuravihāre vasante tayā evarūpaṃ dāruṇaṃ kammaṃ kataṃ, ayuttaṃ te kata’nti, athāyaṃ rājā maṅku hutvā santhambhituṃ na sakkuṇeyya, pariyāyena dhammaṃ kathentasseva me sallakkhessatī’’ti dhammadesanaṃ ārabhanto taṃ kiṃ maññasītiādimāha. Tattha saddhāyikoti saddhātabbo, yassa tvaṃ vacanaṃ saddahasīti attho. Paccayikoti tasseva vevacanaṃ, yassa vacanaṃ pattiyāyasīti attho. Abbhasamanti ākāsasamaṃ. Nippothento āgacchatīti pathavitalato yāva akaniṭṭhabrahmalokā sabbe satte saṇhakaraṇīyaṃ tiṇacuṇṇaṃ viya karonto pisanto āgacchati.

Aññatra dhammacariyāyāti ṭhapetvā dhammacariyaṃ aññaṃ kātabbaṃ natthi, dasakusalakammapathasaṅkhātā dhammacariyāva kattabbā, bhanteti – samacariyādīni tasseva vevacanāni. Ārocemīti ācikkhāmi. Paṭivedayāmīti jānāpemi. Adhivattatīti ajjhottharati.

Hatthiyuddhānīti nāḷāgirisadise hemakappane nāge abhiruyha yujjhitabbayuddhāni. Gatīti nipphatti. Visayoti okāso, samatthabhāvo vā. Na hi sakkā tehi jarāmaraṇaṃ paṭibāhituṃ. Mantino mahāmattāti mantasampannā mahosadhavidhurapaṇḍitādisadisā mahāamaccā. Bhūmigatanti mahālohakumbhiyo pūretvā bhūmiyaṃ ṭhapitaṃ. Vehāsaṭṭhanti cammapasibbake pūretvā tulāsaṅghāṭādīsu laggetvā ceva niyyuhādīsu ca pūretvā ṭhapitaṃ. Upalāpetunti aññamaññaṃ bhindituṃ. Yathā dve janā ekena maggena na gacchanti evaṃ kātuṃ.

Nabhaṃ āhaccāti ākāsaṃ pūretvā. Evaṃ jarā ca maccu cāti idha dveyeva pabbatā gahitā, rājovāde pana ‘‘jarā āgacchati sabbayobbanaṃ vilumpamānā’’ti evaṃ jarā maraṇaṃ byādhi vipattīti cattāropete āgatāva. Tasmāti yasmā hatthiyuddhādīhi jarāmaraṇaṃ jinituṃ na sakkā, tasmā. Saddhaṃ nivesayeti saddhaṃ niveseyya, patiṭṭhāpeyyāti. Pañcamaṃ.

Ý kiến bạn đọc