Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || BUỒN CHI CHIẾC LÁ SÂN CHÙA? - Kinh Không Phải Của Các Thầy (Natumhākasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || BUỒN CHI CHIẾC LÁ SÂN CHÙA? - Kinh Không Phải Của Các Thầy (Natumhākasuttaṃ)

Thứ hai, 25/03/2024, 18:09 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 26.3.2023

BUỒN CHI CHIẾC LÁ SÂN CHÙA?

Kinh Không Phải Của Các Thầy (Natumhākasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần I-Phẩm Không Phải Của Các Thầy (S,iii,33)

Sự chấp ngã theo Phật Pháp bao gồm cả ba điều: “đây là của ta, đây là ta, đây là tự ngã của ta”. Chấp thủ “đây là của ta” thuộc về ái chấp, trong lúc hai điều sau thuộc mạn chấp và kiến chấp. Chấp ngã đưa tới khao khát chiếm hữu và gom thu thế giới vào vòng tay của chính mình. Người ta hãnh diện và vui sướng vì cảm giác “chủ quyền”, kỳ thật chỉ là đau khổ vì chấp sai với thực tế. Càng chấp “đây là của ta” thì khổ càng nhiều. Không phải chúng ta chưa từng bị khổ như vậy, mà chỉ không dám thành thật thừa nhận.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ.

“Yaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ? Rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.

Vedanā na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Sā vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissati.

Saññā na tumhākaṃ …

saṅkhārā na tumhākaṃ, te pajahatha. Te vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissanti.

Viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.

Nhân duyên ở Sāvatthi.

-Này chư Tỳ Khưu, cái gì không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy.

Này chư Tỳ Khưu, cái gì không phải của các Thầy?

Này chư Tỳ Khưu, sắc không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy.

Này chư Tỳ Khưu, thọ không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy.

Này chư Tỳ Khưu, tưởng không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy.

Này chư Tỳ Khưu, các hành không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy.

Này chư Tỳ Khưu, thức không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy.

Seyyathāpi, bhikkhave, yaṃ imasmiṃ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ taṃ jano hareyya vā ḍaheyya vā yathāpaccayaṃ vā kareyya. Api nu tumhākaṃ evamassa: ‘amhe jano harati vā ḍahati vā yathāpaccayaṃ vā karotī’”ti?

“No hetaṃ, bhante”. “Taṃ kissa hetu”? “Na hi no etaṃ, bhante, attā vā attaniyaṃ vā”ti.

Này chư Tỳ Khưu, giả sử như có người mang cỏ, cành cây, lá, củi ở Kỳ Viên này đi đốt hay tùy tiện sử dụng. Các Thầy có nghĩ rằng: “Người ấy mang chúng tôi đi đốt hay tùy tiện sử dụng chúng tôi”?

—Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Vì sao? Vì cái ấy không phải chúng con; cái ấy không phải thuộc tự ngã của chúng con.

“Evameva kho, bhikkhave, rūpaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.

Vedanā na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Sā vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissati.

Saññā na tumhākaṃ …

saṅkhārā na tumhākaṃ …

viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissatī”ti.

—Cũng vậy, này chư Tỳ Khưu, sắc không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy. Thọ không phải của các Thầy … Tưởng không phải của các Thầy … Các hành không phải của các Thầy … Thức không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Thầy.

 

 

Chú Thích

Câu Phật ngôn “Này chư Tỳ Khưu, cái gì không phải của các Thầy, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, lợi lạc cho các Thầy” được tìm thấy ở nhiều bài kinh khác, như trong Trung Bộ, kinh số 140 nhưng có thêm chữ “dīgharattam” -lâu dài- (dīgharattam hitāya sukhāya - hạnh phúc, lợi lạc lâu dài)

Theo Sớ giải, từ bỏ thọ, tưởng, hành, thức ở đây hàm nghĩa từ bỏ ái tham đối với năm uẩn, vì nhất thời từ bỏ năm uẩn là điều bất khả, nhưng giảm thiểu ái chấp mới là điều khả thi. Cứu cánh tối hậu – vô dư y niết bàn - mới từ bỏ hoàn toàn năm uẩn.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

1. Natumhākasutta

33. Sāvatthinidānaṃ.

“Yaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati. Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ? Rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.

Vedanā na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Sā vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissati.

Saññā na tumhākaṃ …

saṅkhārā na tumhākaṃ, te pajahatha. Te vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissanti.

Viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.

Seyyathāpi, bhikkhave, yaṃ imasmiṃ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ taṃ jano hareyya vā ḍaheyya vā yathāpaccayaṃ vā kareyya. Api nu tumhākaṃ evamassa: ‘amhe jano harati vā ḍahati vā yathāpaccayaṃ vā karotī’”ti?

“No hetaṃ, bhante”. “Taṃ kissa hetu”? “Na hi no etaṃ, bhante, attā vā attaniyaṃ vā”ti.

“Evameva kho, bhikkhave, rūpaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.

Vedanā na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Sā vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissati.

Saññā na tumhākaṃ …

saṅkhārā na tumhākaṃ …

viññāṇaṃ na tumhākaṃ, taṃ pajahatha. Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissatī”ti.

Paṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc