Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - GIẢ DANH VÀ THỰC TƯỚNG - Kinh Vajirā (Vajirāsuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - GIẢ DANH VÀ THỰC TƯỚNG - Kinh Vajirā (Vajirāsuttaṃ)

Thứ ba, 26/04/2022, 18:07 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 26.4.2022


GIẢ DANH VÀ THỰC TƯỚNG

Kinh Vajirā (Vajirāsuttaṃ)

CHƯƠNG V. TƯƠNG ƯNG TỶ KHEO NI (S.i, 134)

Có hai cách nói trong cuộc sống: tục đế và chân đế.

Nói theo tục đế là ước lệ mang tánh thi thiết, giả lập theo thường tình.

Nói theo chân đế là bản thể, thực tướng theo vĩ mô.

Cả hai cách nói đều ổn thoả nếu không chấp giả danh là thực tướng. Thí dụ gọi một người là “ông bà la môn” chỉ là định danh trong sự tương đối nói về một người qua xuất thân. Thực tế đó chỉ là là một tập hợp của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sự tập hợp nầy so với những chúng sanh khác hoàn toàn giống nhau. Thế gian điên đảo vì giả danh, định danh, Chẳng những vậy mà còn rơi vào kiến chấp sâu nặng đối với cái gọi là “tôi, ta”. Ác ma nêu lên những câu hỏi thoạt nghe rất “hóc búa” theo thường thức. Thánh ni Vajirā trả lởi từ góc nhìn chân đế. Định lý duyên khởi không nằm trong tầm nhìn thường tình tất nhiên “khó nuốt” với Ác ma. Nói đến sanh diệt và hiện hữu nếu không hiểu theo thực tướng thì rất dễ rơi vào cái nhìn hời hợt thường tình.

Sāvatthinidānaṃ. Atha kho vajirā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami divāvihārāya. Andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā vajirāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena vajirā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vajiraṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Kenāyaṃ pakato satto, kuvaṃ sattassa kārako;

Kuvaṃ satto samuppanno, kuvaṃ satto nirujjhatī’’ti

Tại Sāvatthi.

Vào buổi sáng tỳ khưu ni Vajirā đắp y, cầm bình bát và y kép đi vào Sāvatthi khất thực. Sau khi khất thực và thọ trai xong vị ấy trên đường đi đến rừng Andha để tịnh mặc viễn ly.

Rồi Ác ma muốn làm tỳ khưu ni Vajirā run sợ, hốt hoảng, kinh khiếp để tôn giả từ bỏ tịnh mặc viễn ly đã nói lên kệ ngôn:

Ai tạo ra chúng sanh?

Tạo hoá ấy ở đâu

Chỗ nào hữu tình sanh?

Chỗ nào hữu tình diệt?

Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho vajirā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā, māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi –

‘‘Kiṃ nu sattoti paccesi, māra diṭṭhigataṃ nu te;

Suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ, nayidha sattupalabbhati.

‘‘Yathā hi aṅgasambhārā, hoti saddo ratho iti;

Evaṃ khandhesu santesu, hoti sattoti sammuti [sammati (syā. kaṃ.)].

‘‘Dukkhameva hi sambhoti, dukkhaṃ tiṭṭhati veti ca;

Nāññatra dukkhā sambhoti, nāññaṃ dukkhā nirujjhatī’’ti.

Tỷ khưu ni Vajirā tự nghĩ: "Ai đã nói lên kệ ngôn này? Người hay phi nhân?"

Tỷ khưu ni Vajirā biết được: "Ðây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hốt hoảng, kinh khiếp, rời xa thiền định", liền nói kệ ngôn:

Cái gọi là chúng sanh

Ác ma, sao chấp kiến?

Chỉ tập hợp pháp hành

Giả danh không thực hữu.

Như tên gọi “chiếc xe”

Là kết hợp cơ phận

Khi các uẩn hiện hữu

Quy ước gọi “chúng sanh”.

Thật sự chỉ khổ sanh

Khổ hiện hữu, khổ diệt

Không gì khác, khổ sanh

Không gì khác, khổ diệt.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ vajirā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

Ác ma biết được: "Tỷ khưu ni Vajirā đã biết ta” phiền muộn và thất vọng biến mất ngay chỗ ấy.

‘‘Kenāyaṃ pakato satto = Ai tạo ra chúng sanh

kuvaṃ sattassa kārako = Tạo hoá ấy ở đâu?

Kuvaṃ satto samuppanno = Chỗ nào hữu tình sanh?

kuvaṃ satto nirujjhatī’’ti = Chỗ nào hữu tình diệt?

--

‘‘Kiṃ nu sattoti paccesi = Sao ngươi cứ chấp vào cái gọi là “chúng sanh”

māra diṭṭhigataṃ nu te = Hỡi Ác ma, đó là kiến chấp của ngươi?

Suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ = Đây chỉ là nhóm tập hợp pháp hành

nayidha sattupalabbhati = Chứ không thật có cái gọi là “chúng sanh”

‘‘Yathā hi aṅgasambhārā = Giống như sự kết hợp của nhiều bộ phận

hoti saddo ratho iti = Danh từ “chiếc xe” được tạo nên

Evaṃ khandhesu santesu = Cũng vậy các uẩn hiện hữu

hoti sattoti sammuti = Nên có tên gọi là “chúng sanh”

‘‘Dukkhameva hi sambhoti = Chỉ có khổ sanh khởi

dukkhaṃ tiṭṭhati veti ca = Chỉ có khổ hiện hữu, và hoại diệt

Nāññatra dukkhā sambhoti = Chẳng gì khác sanh, chỉ có khổ

nāññaṃ dukkhā nirujjhatī’’ti = Chẳng gì khác diệt, chỉ có khổ.

Có rất ít chi tiết về tỳ khưu ni Vajirā trong chánh tạng và sớ giải. Trưởng Lão Ni Kệ cũng không đề cập tới vị nầy.

Thí dụ về giả danh “chiếc xe” được tìm thấy nhiều nơi trong kinh điển có lẽ được biết nhiều nhất qua kinh Milinda Vấn Đạo.

Trong bài kinh nầy thuật ngữ dukkha - tạm dịch là khổ - cần được hiểu theo ý nghĩa rộng nhất và chuyên môn nhất trong Phật học bao gồm tánh cách trống rỗng, huyễn hoá, bất toàn, hệ luỵ.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

10. Vajirāsuttaṃ [Mūla]

171. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho vajirā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami divāvihārāya. Andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā vajirāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena vajirā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vajiraṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Kenāyaṃ pakato satto, kuvaṃ sattassa kārako;

Kuvaṃ satto samuppanno, kuvaṃ satto nirujjhatī’’ti.

Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho vajirā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā, māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi –

‘‘Kiṃ nu sattoti paccesi, māra diṭṭhigataṃ nu te;

Suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ, nayidha sattupalabbhati.

‘‘Yathā hi aṅgasambhārā, hoti saddo ratho iti;

Evaṃ khandhesu santesu, hoti sattoti sammuti [sammati (syā. kaṃ.)].

‘‘Dukkhameva hi sambhoti, dukkhaṃ tiṭṭhati veti ca;

Nāññatra dukkhā sambhoti, nāññaṃ dukkhā nirujjhatī’’ti.

Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ vajirā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

10. Vajirāsuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

171. Dasame nayidha sattupalabbhatīti imasmiṃ suddhasaṅkhārapuñje paramatthato satto nāmana upalabbhati. Khandhesu santesūti pañcasu khandhesu vijjamānesu tena tenākārena vavatthitesu.

Sammutīti sattoti samaññāmattameva hoti. Dukkhanti pañcakkhandhadukkhaṃ. Nāññatra dukkhāti ṭhapetvā dukkhaṃ añño neva sambhoti na nirujjhatīti. Dasamaṃ.

Ý kiến bạn đọc