Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || DUY VẬT - Kinh Chẳng Có (natthidinnasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || DUY VẬT - Kinh Chẳng Có (natthidinnasuttaṃ)

Thứ bảy, 14/12/2024, 17:54 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 16.10.2024

Hai bài Kinh Tự Ngã (soattāsuttaṃ), S.24.3. Kinh Có Thể Chẳng Phải Cho Tôi Nocamesiyāsuttaṃ S.24.4 có dàn bài tương tự kinh số S24.32 chỉ khác ở quan niệm.

Kinh Tự Ngã (soattāsuttaṃ), S.24.3. đề cập chấp kiến: "Cái ấy là tự ngã, cái ấy là thế giới. Sau khi chết, cái ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại"

Kinh Có Thể Chẳng Phải Cho Tôi Nocamesiyāsuttaṃ S.24.4 đề cập chấp kiến: "Nếu không là ta, thời không thuộc của ta. Nếu sẽ không là ta, thời sẽ không thuộc của ta"

Cả hai đều thuộc tà kiến đã đề cập trong những bài kinh trước nên thông qua.

Bài kinh hôm nay vẫn với dàn bài tương tự nhưng kiến chấp thuộc đoạn kiến.

DUY VẬT

Kinh Chẳng Có (natthidinnasuttaṃ)

 Tập III – Uẩn

Chương III. Tương Ưng Kiến - Phẩm Dự Lưu (S,iii,190)

Thực tại không phải chỉ có những gì hiển hiện để mắt thấy, tai nghe mà còn có những ảnh hưởng lâu dài, mà thường khi ngũ quan không có khả năng kết nối. Đây là lý do tại sao có sự nghi hoặc về nghiệp báo. Không tin nghiệp báo thì không tin vào có đời trước, đời sau. Không tin ở luân hồi sanh tử, thì khó tin vào thế giới có những chúng sanh vô hình trong con mắt thịt của loài người. Cả quyết là chỉ có những gì được mắt thấy, tai nghe mới có thật thì là một cực đoan nguy hiểm.

Kinh văn

207. sāvatthinidānaṃ. “kismiṃ nu kho, bhikkhave, sati, kiṃ upādāya, kiṃ abhinivissa evaṃ diṭṭhi uppajjati — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti? bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā ... pe ... “rūpe kho, bhikkhave, sati, rūpaṃ upādāya, rūpaṃ abhinivissa evaṃ diṭṭhi uppajjati — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti. vedanāya sati ... pe ... saññāya sati ... saṅkhāresu sati... viññāṇe sati, viññāṇaṃ upādāya, viññāṇaṃ abhinivissa evaṃ diṭṭhi uppajjati — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti.

“taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti? “aniccaṃ, bhante” ... pe ... “vedanā... saññā... saṅkhārā... viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti? “aniccaṃ, bhante” ... pe ... api nu taṃ anupādāya evaṃ diṭṭhi uppajjeyya — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti? “no hetaṃ, bhante”. “yampidaṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ anuvicaritaṃ manasā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti? “aniccaṃ, bhante”. “yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti? “dukkhaṃ, bhante”. “yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, api nu taṃ anupādāya evaṃ diṭṭhi uppajjeyya — ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti? “no hetaṃ, bhante”.

“yato kho, bhikkhave, ariyasāvakassa imesu ca ṭhānesu kaṅkhā pahīnā hoti, dukkhepissa kaṅkhā pahīnā hoti ... pe ... dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāyapissa kaṅkhā pahīnā hoti — ayaṃ vuccati, bhikkhave, ariyasāvako sotāpanno avinipātadhammo niyato sambodhiparāyano”ti. dutiyaṃ.

Nhân duyên ở Sāvatthi.

Tại Sāvatthī.

"Này chư Tỳ khưu, khi có điều gì, chấp thủ vào điều gì, thiên chấp điều gì mà người ta khởi lên chấp kiến ‘Không có (quả) bố thí, không có (phước) của cúng dường, không có (công đức) của tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có (nghĩa) mẹ, không có (ân) cha, không có các loài hóa sanh. Ở đời, không có những vị sa môn, tu sĩ chánh hạnh, chánh hướng, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này và đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về địa giới; thủy đại trở về thủy giới; hỏa đại trở về hỏa giới; phong đại trở về phong giới; các căn biến nhập vào hư không. (Bốn) người gánh quan tài với người nằm trong quan tài là năm, gánh người chết mang đi tống tán, những lời tán tụng kết thúc, lễ tang chấm dứt với tro tàn. Cúng kiếng là tín lý của kẻ ngu. Những tin tưởng vào bố thí (và những điều tiếp theo) chỉ là rỗng không, sai lầm. Dù là người trí hay kẻ ngu đều chung cuộc giống nhau: ‘sau khi mạng chung hoàn toàn tan biến, không tồn tại’”.

"Bạch Đức Thế Tôn, các giáo nghĩa đều y chỉ ở Thế Tôn…”

“Này chư Tỳ khưu, khi có sắc, chấp thủ vào sắc, thiên chấp vào sắc nên chấp kiến này khởi lên: "Không có (quả) bố thí, không có (phước) của cúng dường …”

Khi có thọ …

Khi có tưởng …

Khi có hành …

Khi có thức, chấp thủ vào thức, thiên chấp vào thức nên chấp kiến này khởi lên: "Không có (quả) bố thí, không có (phước) của cúng dường …”

“Này chư Tỳ khưu, các thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?"

"Là vô thường, bạch Thế Tôn."

"Cái gì vô thường, thì là khổ hay lạc?"

"Là khổ, bạch Thế Tôn."

"Đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến đổi, liệu nếu không chấp thủ thì có quan niệm ‘Không có (quả) bố thí, không có (phước) của cúng dường …’”

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Thọ … tưởng ... hành ... thức là thường hay vô thường?"

"Là vô thường, bạch Thế Tôn."

"Cái gì vô thường, thì là khổ hay lạc?"

"Là khổ, bạch Thế Tôn."

"Đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến đổi, liệu nếu không chấp thủ thì có quan niệm ‘Không có (quả) bố thí, không có (phước) của cúng dường …’”

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

“Những gì được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức, đạt được, tìm kiếm và trải nghiệm bởi tâm thì những thứ đó là thường hay vô thường?”

“Bạch Thế Tôn, điều đó là vô thường.”

“Cái gì là vô thường thì đó là khổ hay lạc?”

“Bạch Thế Tôn, đó là khổ.”

“Nhưng nếu không có bám chấp vào những gì vô thường, khổ đau và chịu sự biến đổi, liệu có thể khởi lên quan niệm ‘Không có (quả) bố thí, không có (phước) của cúng dường…’”.

“Bạch Thế Tôn, không thể.”

“Khi một vị Thánh đệ tử đã từ bỏ mọi nghi hoặc về sáu trường hợp này và từ bỏ nghi hoặc về khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt khổ và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ, vị ấy được gọi là một bậc nhập lưu, không còn rơi vào cảnh khổ, an định trong vận mệnh và giác ngộ là đích điểm.”

Chú thích

Chấp kiến trong bài kinh này thuộc đoạn kiến (natthikavāda). Trong Kinh Sa Môn Quả, Trường Bộ, có đề cập về lập thuyết hư vô (ucchedavāda) do Ajita Kesakambalī cổ suý.

Lập luận của người theo đoạn kiến dựa trên quan điểm thuần duy vật. Chỉ quan sát hiện tượng vật chất, mà ngay cả hiện tượng tâm thức, nhất thời khó thấy được kết nối nhân quả, như một người tạo ác nghiệp nào đó rồi quả trổ sanh trong khung thời gian hoàn toàn khác biệt. Cũng với quan niệm duy vật, những người chấp đoạn kiến không tin có các loài hoá sanh với sắc tế như ma quỷ, chư thiên. Trong Kinh Tệ Túc, Trường Bộ, có mô tả ngắn gọn về đoạn kiến với quan niệm “Không có đời sau, không có các loại hoá sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.

Những quan điểm dựa trên đoạn kiến dẫn tới sự phủ nhận hoàn toàn giá trị của nhân quả, của những gì thiêng liêng, của sự nỗ lực tu tập hướng thượng và hướng thiện trong đời sống. Nên lưu ý ngay cả một người tự nhận mình là Phật tử, nhưng thỉnh thoảng vẫn có một vài kiến chấp cực đoan như được đề cập trong bài kinh này, thí dụ lối nói: “chết rồi thì cát bụi về với cát bụi thôi…”

Đoạn kiến thường dẫn tới những sở hành nguy hiểm vì không tin nhân quả. Về mặt này được xem là tệ hại hơn nhiều so với thường kiến.

Cả hai kiến chấp thường kiến và đoạn kiến cũng có thể cùng có ở một người, thí dụ vẫn cúng bái và sát sanh. Một số lớn con người mang quan niệm hỗn hợp của thường kiến, đoạn kiến.

Một điều phải rất cẩn thận khi học Phật Pháp, đó là những người ưa thích tạo phước dễ có cái nhìn gần với thường kiến; trong lúc người đề cao sự giả hợp hư huyễn của cuộc sống thường rơi vào đoạn kiến. Lời Phật dạy thuộc trung đạo nằm ngoài cả hai.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Dưới đây là bản Việt dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

V. Không Có (Tạp 7, Ðại 2,43c) (S.iii,206)

-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo, do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên: "Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loài hóa sanh. Ở đời, không có những vị Sa-môn chánh hạnh, chánh hướng, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này và đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới; thủy đại trở về trả lại cho thủy giới; hỏa đại trở về trả lại cho hỏa giới; phong đại trở về trả lại cho phong giới; các căn nhập vào hư không. Bốn người gánh quan tài với người nằm trong quan tài là năm, gánh người chết mang đi (đến chỗ hỏa táng), thốt ra những lời tán tụng, các xương trắng như màu bồ câu và những vật cúng dường trở thành tro bụi. Chỉ có người ngu mới tán dương bố thí. Lời nói của họ trống không, giả dối, khi họ thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không còn tồn tại sau khi chết"?

3)-- Ðối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...

4) (Như kinh trên, chỉ khác ở "tà kiến").

Sớ Giải

207-209. diṭṭhantiādīsu diṭṭhaṃ rūpāyatanaṃ. sutaṃ saddāyatanaṃ. mutaṃ gandhāyatanaṃ rasāyatanaṃ phoṭṭhabbāyatanaṃ. tañhi patvā gahetabbato mutanti ca vuttaṃ. avasesāni sattāyatanāni viññātaṃ nāma. pattanti pariyesitvā vā apariyesitvā vā pattaṃ. pariyesitanti pattaṃ vā apattaṃ vā pariyesitaṃ. anuvicaritaṃ manasāti cittena anusañcaritaṃ. lokasmiñhi pariyesitvā pattampi atthi, pariyesitvā nopattampi, apariyesitvā pattampi, apariyesitvā nopattampi. tattha pariyesitvā pattaṃ pattaṃ nāma, pariyesitvā nopattaṃ pariyesitaṃ nāma. apariyesitvā pattañca apariyesitvā nopattañca manasānuvicaritaṃ nāma. atha vā pariyesitvā pattampi apariyesitvā pattampi pattaṭṭhena pattaṃ nāma, pariyesitvā nopattameva pariyesitaṃ nāma, apariyesitvā nopattaṃ manasānuvicaritaṃ nāma. sabbaṃ vā etaṃ manasā anuvicaritameva.

207-209. Trong phẩm “Kiến - diṭṭha" với các từ tương tự, các thuật ngữ được giải thích như sau:

  • Diṭṭha: liên quan đến rūpāyatana, tức là căn cơ của hình sắc (những gì được thấy bằng mắt).
  • Suta: liên quan đến saddāyatana, tức là căn cơ của âm thanh (những gì được nghe bằng tai).
  • Muta: liên quan đến các căn cơ của mùi, vị và xúc chạm, cụ thể là gandhāyatana (mùi), rasāyatana (vị) và phoṭṭhabbāyatana (xúc chạm). Vì những điều này có thể được nhận biết sau khi đã tiếp xúc và nắm bắt, chúng được gọi là muta.
  • Viññāta: liên quan đến các căn cơ còn lại (sáu nội căn) và những hiện tượng thuộc về tâm.
  • Patta: những gì đã đạt được thông qua tìm kiếm hoặc không qua tìm kiếm. Cái gì đã đạt được thì gọi là patta.
  • Pariyesita: những gì đã được tìm kiếm nhưng chưa đạt được, hoặc có thể chưa đạt được.
  • Manasānuvicarita: những gì được suy ngẫm, cân nhắc bởi tâm trí (citta). Điều này bao gồm cả những gì đã được tìm kiếm và đạt được hoặc chưa đạt được.

Tất cả các đối tượng này đều có thể được suy ngẫm và cân nhắc bởi tâm trí và chúng có thể được gọi là "manasānuvicarita."

Ý kiến bạn đọc