Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | ĐỐI TƯỢNG CUNG KÍNH CỦA THIÊN ĐẾ - Kinh Lễ Bái Hàng Tại Gia Cư Sĩ (Gahaṭṭhavandanāsuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | ĐỐI TƯỢNG CUNG KÍNH CỦA THIÊN ĐẾ - Kinh Lễ Bái Hàng Tại Gia Cư Sĩ (Gahaṭṭhavandanāsuttaṃ)

Thứ bảy, 17/12/2022, 18:28 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 17.12.2022


ĐỐI TƯỢNG CUNG KÍNH CỦA THIÊN ĐẾ

Kinh Lễ Bái Hàng Tại Gia Cư Sĩ (Gahaṭṭhavandanāsuttaṃ)

CHƯƠNG XI. TƯƠNG ƯNG SAKKA - PHẨM THỨ HAI (S. i, 234)

Người Việt có câu “làm trời” chỉ cho thái độ trịch thượng của người mục hạ vô nhân. Bài kinh nầy nói lên một hình ảnh hoàn toàn trái ngược: Vua Trời luôn sống sống lòng cung kính khiêm hạ. Hơn thế nữa, lòng cung kính của Thiên chủ không phải chí có đối với hàng xuất gia nhất tâm hướng cầu giác ngộ giải thoát mà còn đối với hàng tại gia cư sĩ đức hạnh, chu toàn bổn phận. Ở đây đối tượng của lòng cung kính không nằm ở danh phận mà ở đức tánh đặc thù.

Sāvatthiyaṃ. Tatra...pe... etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṃ saṅgāhakaṃ āmantesi – ‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ. Uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmiṃ dassanāyā’ti. ‘Evaṃ bhaddantavā’ti

Tại Jetavana (Kỳ Viên), Sāvatthi (Xá Vệ).

Ở đấy Đức Thế Tôn nói:

-- Này các Tỷ khưu, thuở trước Thiên chủ Sakka nói với người đánh xe như sau:

" - Này Mātali thân mến, hãy thắng ngàn tuấn mã vào cỗ xe. Chúng ta đi đến thượng uyển để ngắm cảnh".

" -- Thưa vâng, Thiên chủ".

kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi – ‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho. Yassa dāni kālaṃ maññasī’’’ti. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṃ katvā sudaṃ puthuddisā namassati. Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Này các Tỷ khưu, người đánh xe Mātali trả lời Thiên chủ Sakka; sau khi hãy thắng ngàn tuấn mã vào cỗ xe, liền báo với Thiên chủ Sakka:

" -- Thưa Ngài, thiên xa đã sẳn sàng. Ngài có thể tuỳ nghi!"

Này các Tỷ khưu, Thiên chủ Sakka từ cung điện Vejayanta đi xuống, chắp tay đảnh lễ các phương hướng.

Này các Tỷ khưu, bấy giờ người đánh xe Mātali nói với Thiên chủ Sakka bằng kệ ngôn:

‘‘Taṃ namassanti tevijjā, sabbe bhummā ca khattiyā;

Cattāro ca mahārājā, tidasā ca yasassino;

Atha ko nāma so yakkho, yaṃ tvaṃ sakka namassasī’’ti.

“Tất cả người lễ Ngài

Gồm những hàng trí thức,

Vua chúa trên quả đất,

Và Tứ Đại Thiên Vương

Tam thập thiên chói sáng

Vậy bậc oai đức nào

Ngài lễ, hỡi Thiên chủ?

(Thiên chủ Sakka):

‘‘Maṃ namassanti tevijjā, sabbe bhummā ca khattiyā;

Cattāro ca mahārājā, tidasā ca yasassino.

‘‘Ahañca sīlasampanne, cirarattasamāhite;

Sammāpabbajite vande, brahmacariyaparāyane.

‘‘Ye gahaṭṭhā puññakarā, sīlavanto upāsakā;

Dhammena dāraṃ posenti, te namassāmi mātalī’’ti.

“Tất cả người lễ ta

Gồm những hàng trí thức,

Vua chúa trên quả đất,

Và Tứ Đại Thiên Vương,

Tam thập thiên chói sáng.

“Ta lễ bậc giới hạnh

Tu thiền định miên mật

Bậc xuất gia chơn chánh

Cầu phạm hạnh viên mãn.

“Này hỡi Mātali

Và ta cũng đãnh lễ

Hàng cư sĩ tại gia

Tạo phước, sống có giới,

Biết chăm sóc hôn phối

Chu toàn đúng thiện pháp.

(Mātali):

‘‘Seṭṭhā hi kira lokasmiṃ, ye tvaṃ sakka namassasi;

Ahampi te namassāmi, ye namassasi vāsavā’’ti.

“Những người Ngài đảnh lễ

Thật cao quý trong đời

Tôi cũng xin kính lễ

Những người Ngài kính lễ

Thưa Ngài Vāsava!

(Đức Thế Tôn):

‘‘Idaṃ vatvāna maghavā, devarājā sujampati;

Puthuddisā namassitvā, pamukho rathamāruhī’’ti.

“Thiên chủ Maghavā

Phu quân của Sujā

Đã bái vọng bốn phương

Và sau khi giải thích

Ngự giá lên thiên xa.

Taṃ namassanti tevijjā = những bậc trí thức đãnh lễ Ngài (xem thêm thích nghĩa)

sabbe bhummā ca khattiyā = tất cả sát đế lỵ trên quả đất

Cattāro ca mahārājā = tứ đại thiên vương

tidasā ca yasassino = quần tiên chói sáng ở cõi đao lợi

Atha ko nāma so yakkho yaṃ tvaṃ sakka namassasī’’ti = Ai là nhân vật uy lực mà Ngài, Sakka, lễ bái?

Maṃ namassanti tevijjā = những bậc trí thức đảnh lễ ta

sabbe bhummā ca khattiyā = tất cả sát đế lỵ trên quả đất

Cattāro ca mahārājā = tứ đại thiên vương

tidasā ca yasassino = quần tiên chói sáng ở cõi đao lợi

Ahañca sīlasampanne = ta đảnh lễ bậc đầy đủ giới (chủ từ và động từ trong kệ ngôn cần được hoán vị)

cirarattasamāhite = tu thiền định miên mật

Sammāpabbajite vande = bậc xuất gia chơn chánh

Brahmacariyaparāyane = hướng cầu phạm hạnh thanh tịnh

‘‘Ye gahaṭṭhā puññakarā = đối với những cư sĩ tạo phước

sīlavanto upāsakā = hạng tại gia có giới hạnh

Dhammena dāraṃ posenti = đầy đủ bổn phận theo lẽ đạo với người hôn phối

te namassāmi mātalī’ti = ta cũng đãnh lễ những vị ấy, hỡi Mātali

‘‘Seṭṭhā hi kira lokasmiṃ ye tvaṃ sakka namassasi = những người Ngài đảnh lễ quả thật cao quý thưa Thiên chủ

Ahampi te namassāmi, ye namassasi vāsavā’ti = Ngài đảnh lễ người nào tôi cũng đảnh lễ người ấy, thưa Vāsava.

‘‘Idaṃ vatvāna maghavā, devarājā sujampati = Thiên vương Maghavā phu quân của Sujā sau khi giải thích như vậy

Puthuddisā namassitvā = đã đảnh lễ các phương hướng

pamukho rathamāruhī’ti = Thiên chủ leo lên thiên xa

Thành ngữ Yassa dāni kālaṃ maññasi tuỳ theo ngữ cảnh có thể dịch là “hãy làm những gì hợp thời”, “hãy làm những gì thích hợp”, “hãy tuỳ nghi”.

Chữ tevijjā có ba ý nghĩa: A. Người am hiểu chuyện đạo, chuyện đời, thế giới tự nhiên nên có thể dịch là hàng trí thức. B. Người tinh thông Tam Phệ Đà của bà la môn giáo. C. Bậc chứng tam minh trong Phật Pháp (chứng túc mạng minh, sanh tử minh, lậu tận minh). Trong bài kinh nầy chỉ cho ý nghĩa những bậc trí thức.

Cụm từ tidasā ca yasassino – 30 vị quần tiên chói sáng – là cách nói lấy tròn của con số 33 vị chỉ cho 33 đại tiên cõi Đao Lợi. Nên hiểu là 32 vị đại tiên cũng đảnh lễ Thiên chủ Đế thích. Thay vì điều chỉnh con số 33 (tam thập tam) thành 32 (trừ Thiên chủ) nên nói gọn là là 30.

Chữ yakkha ở đây không nên hiểu là “dạ xoa” trong ý nghĩa thông thường mà chỉ cho những loài hoá sanh có đại thần lực.

Chữ Brahmacariyaparāyane được Thanh Tịnh Đạo giải thích là “những bậc sống phạm hạnh hướng cầu cứu cánh niết bàn (brahmacariyaṃvussati nibbānaparāyaṇaṃ (V 218,21)

Chữ gahaṭṭha thường được dịch là gia chủ là người chủ gia đình. Cũng có nghĩa là hàng tại gia, cư sĩ. Ở đây nên hiểu là hàng cư sĩ đối nghĩa với hàng xuất gia.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

8. Gahaṭṭhavandanāsuttaṃ [Mūla]

264. Sāvatthiyaṃ. Tatra...pe... etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṃ saṅgāhakaṃ āmantesi – ‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ. Uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmiṃ dassanāyā’ti. ‘Evaṃ bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi – ‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho. Yassa dāni kālaṃ maññasī’’’ti. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṃ katvā [pañjaliko (pī.), pañjaliṃ katvā (ka.)] sudaṃ puthuddisā namassati. Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Taṃ namassanti tevijjā, sabbe bhummā ca khattiyā;

Cattāro ca mahārājā, tidasā ca yasassino;

Atha ko nāma so yakkho, yaṃ tvaṃ sakka namassasī’’ti.

‘‘Maṃ namassanti tevijjā, sabbe bhummā ca khattiyā;

Cattāro ca mahārājā, tidasā ca yasassino.

‘‘Ahañca sīlasampanne, cirarattasamāhite;

Sammāpabbajite vande, brahmacariyaparāyane.

‘‘Ye gahaṭṭhā puññakarā, sīlavanto upāsakā;

Dhammena dāraṃ posenti, te namassāmi mātalī’’ti.

‘‘Seṭṭhā hi kira lokasmiṃ, ye tvaṃ sakka namassasi;

Ahampi te namassāmi, ye namassasi vāsavā’’ti.

‘‘Idaṃ vatvāna maghavā, devarājā sujampati;

Puthuddisā namassitvā, pamukho rathamāruhī’’ti.

8. Gahaṭṭhavandanāsuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

264. Aṭṭhame puthuddisāti catasso disā catasso anudisā ca. Bhummāti bhūmivāsino. Cirarattasamāhiteti upacārappanāhi cirarattasamāhitacitte. Vandeti vandāmi. Brahmacariyaparāyaṇeti dasapi vassāni vīsatipi vassāni...pe... saṭṭhipi vassāni āpāṇakoṭikaṃ ekaseyyaṃ ekabhattantiādikaṃ seṭṭhacariyaṃ brahmacariyaṃ caramāneti attho. Puññakarāti catupaccayadānaṃ kusumbhasumanapūjā dīpasahassajālanti evamādipuññakārakā. Sīlavantoti upāsakatte patiṭṭhāya pañcahipi dasahipi sīlehi samannāgatā. Dhammena dāraṃ posentīti umaṅgabhindanādīni akatvā dhammikehi kasigorakkhavaṇijjādīhi puttadāraṃ posenti. Pamukho rathamāruhīti devānaṃ pamukho seṭṭho rathaṃ āruhi. Aṭṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc