Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - Đối Tượng Cúng Dường Thù Thắng Nhất - Kinh Cung Thuật (Issattasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - Đối Tượng Cúng Dường Thù Thắng Nhất - Kinh Cung Thuật (Issattasuttaṃ)

Thứ tư, 26/01/2022, 19:37 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 26.1.2022


Đối Tượng Cúng Dường Thù Thắng Nhất

Kinh Cung Thuật (Issattasuttaṃ)

(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ BA) (S.i, 98)

Biết cho là đáng quý trong cuộc sống. Biết đối tượng gọi là “ứng cúng” cần tới sự hiểu biết sâu sắc. Người ta thường bố thí cúng dường vì hâm mộ hay tập tục. Ít người hiểu biết cái gì tạo nên phước điền cao quý để gieo trồng thiện nghiệp. Trong phước sự mà cả hai người bố thí cúng dường và người thọ thí đều thanh tịnh thì là tạo công đức thù thắng. Khi những thắng duyên hội đủ thì người tạo phước được ngập tràn hoan hỷ và phúc quả mỹ mãn.


Đối Tượng Cúng Dường Thù Thắng Nhất - Kinh Cung Thuật (Issattasuttaṃ)

Sāvatthinidānaṃ.

Tại Sāvatthi.

Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca –

Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi xứ Kosala bạch Thế Tôn:

‘‘kattha nu kho, bhante, dānaṃ dātabba’’nti?

Bạch Thế Tôn, nên bố thí cúng dường chỗ nào?

‘‘Yattha kho, mahārāja, cittaṃ pasīdatī’’ti.

Này Đại vương chính ở nơi nào tâm tịnh tín.

‘‘Kattha pana, bhante, dinnaṃ mahapphala’’nti?

Bạch Thế Tôn, bố thí cúng dường chỗ nào được quả lớn?

‘‘Aññaṃ kho etaṃ, mahārāja, kattha dānaṃ dātabbaṃ, aññaṃ panetaṃ kattha dinnaṃ mahapphalanti? Sīlavato kho, mahārāja, dinnaṃ mahapphalaṃ, no tathā dussīle. Tena hi, mahārāja, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā, te khameyya, tathā naṃ byākareyyāsi.

Này Ðại vương, câu hỏi “nên bố thí cúng dường chỗ nào?” là một câu; câu “bố thí cúng dường chỗ nào được quả lớn?” lại là một câu hỏi khác. Này Đại vương, bố thí cúng dường cho người trì giới được quả lớn so với bố thí cúng dường đến người không có giới.

Ta sẽ hỏi Đại vương. Hãy trả lời một cách thích hợp.

Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha tyassa yuddhaṃ paccupaṭṭhitaṃ saṅgāmo samupabyūḷho [samūpabbūḷho (sī.), samupabbuḷho (pī.)]. Atha āgaccheyya khattiyakumāro asikkhito akatahattho akatayoggo akatūpāsano bhīru chambhī utrāsī palāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti?

Đại vương nghĩ thế nào giả sử nhà vua đang trong chiến tranh và một trận chiến sắp xẩy ra. Rồi một sát đế lỵ trẻ tuổi đi đến. Người ấy không được nhận được sự thụ huấn, không có kỹ năng, không có tôi luyện, không có kinh nghiệm lại nhát gan, sợ hãi, luôn tìm cách tháo chạy. Đại vương có thu nạp và sử dụng người ấy chăng?

‘‘Nāhaṃ, bhante, bhareyyaṃ taṃ purisaṃ, na ca me attho tādisena purisenā’’ti.

Bạch Thế Tôn, con không muốn dùng người ấy.

‘‘Atha āgaccheyya brāhmaṇakumāro asikkhito...pe... atha āgaccheyya vessakumāro asikkhito...pe... atha āgaccheyya suddakumāro asikkhito...pe... na ca me attho tādisena purisenā’’ti.

Giả sử có một Bà-la-môn trẻ tuổi không có thụ huấn... Giả sử có một phệ xá trẻ tuổi không có thụ huấn... Giả sử có một chiên đà la trẻ tuổi không có thụ huấn... và Đại vương có thu nạp và sử dụng người ấy chăng? Bạch Thế Tôn, con không muốn dùng người ấy.

‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha tyassa yuddhaṃ paccupaṭṭhitaṃ saṅgāmo samupabyūḷho. Atha āgaccheyya khattiyakumāro susikkhito katahattho katayoggo katūpāsano abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti?

Đại vương nghĩ thế nào giả sử nhà vua đang trong chiến tranh và một trận chiến sắp xẩy ra. Rồi một sát đế lỵ trẻ tuổi đi đến. Người ấy có được nhận được sự thụ huấn, có kỹ năng, có tôi luyện, có kinh nghiệm lại mạnh mẽ, can đảm, sẳn sàng ứng phó. Đại vương có thu nạp và sử dụng người ấy chăng?

‘‘Bhareyyāhaṃ, bhante, taṃ purisaṃ, attho ca me tādisena purisenā’’ti.

Bạch Thế Tôn, con sẽ thu nạp vì người ấy hữu dụng.

‘‘Atha āgaccheyya brāhmaṇakumāro...pe... atha āgaccheyya vessakumāro...pe... atha āgaccheyya suddakumāro susikkhito katahattho katayoggo katūpāsano abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti?

Giả sử có một Bà-la-môn trẻ tuổi có thụ huấn... Giả sử có một phệ xá trẻ tuổi có thụ huấn... Giả sử có một chiên đà la trẻ tuổi có thụ huấn... và Đại vương có thu nạp và sử dụng người ấy chăng?

‘‘Bhareyyāhaṃ, bhante, taṃ purisaṃ, attho ca me tādisena purisenā’’ti.

Bạch Thế Tôn, con sẽ thu nạp vì người ấy hữu dụng.

‘‘Evameva kho, mahārāja, yasmā kasmā cepi [yasmā cepi (sī. syā. kaṃ. ka.)] kulā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti, so ca hoti pañcaṅgavippahīno pañcaṅgasamannāgato, tasmiṃ dinnaṃ mahapphalaṃ hoti.

Tương tự như vậy, này Ðại vương, một người đi tu dù xuất thân thế nào nếu đoạn trừ năm chi phần và thành tựu năm chi phần thì bố thí cúng dường cho người ấy được quả phúc lớn.

Katamāni pañcaṅgāni pahīnāni honti? Kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thinamiddhaṃ pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā hoti. Imāni pañcaṅgāni pahīnāni honti.

Năm chi phần đoạn trừ là gì? Tham dục được đoạn trừ, sân độc được đoạn trừ, hôn thuỵ được đoạn trừ, trạo hối được đoạn trừ, nghi hoặc được đoạn trừ.

Katamehi pañcahaṅgehi samannāgato hoti? Asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, asekkhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena paññākkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti. Imehi pañcahaṅgehi samannāgato hoti.

Năm chi phần thành tựu là gì? Vô học giới uẩn được viên mãn, vô học định uẩn được viên mãn, vô học tuệ uẩn được viên mãn, vô học giải thoát uẩn được viên mãn, vô học giải thoát tri kiến uẩn được viên mãn.

Iti pañcaṅgavippahīne pañcaṅgasamannāgate dinnaṃ mahapphala’’nti.

Bố thí cúng dường cho người đoạn trừ năm chi phần và thành tựu năm chi phần như vậy được quả phúc lớn.

Idamavoca bhagavā...pe... satthā –

Sau khi dạy như vậy, Đức Thế Tôn nói thêm:

‘‘Issattaṃ balavīriyañca,

yasmiṃ vijjetha māṇave;

Taṃ yuddhattho bhare rājā,

nāsūraṃ jātipaccayā.

‘‘Như vua đang lâm trận

Thu dụng những trai tráng

Can cường, giỏi xạ tiễn

Không phân biệt xuất thân

‘‘Tatheva khantisoraccaṃ,

dhammā yasmiṃ patiṭṭhitā.

Ariyavuttiṃ medhāviṃ,

hīnajaccampi pūjaye.

‘‘Người sống đời thánh thiện

Kham nhẫm và từ hoà

Dù từ giai cấp thấp

Người trí vẫn kính lễ

‘‘Kāraye assame ramme,

vāsayettha bahussute;

Papañca vivane kayirā,

dugge saṅkamanāni ca.

‘‘Annaṃ pānaṃ khādanīyaṃ,

vatthasenāsanāni ca;

Dadeyya ujubhūtesu,

vippasannena cetasā.

‘‘Tạo hồ nước trong rừng

Làm đường nơi hoang dã

Lập tịnh thất mời thình

Bậc chân tu thật học

‘‘Với tâm tư tịnh tín

Đới với bậc chánh hạnh

Cúng thức ăn, thức uống

Y phục và sàng toạ

‘‘Yathā hi megho thanayaṃ,

vijjumālī satakkaku;

Thalaṃ ninnañca pūreti,

abhivassaṃ vasundharaṃ.

‘‘Tatheva saddho sutavā,

abhisaṅkhacca bhojanaṃ;

Vanibbake tappayati,

annapānena paṇḍito.

‘‘Như sấm sét mưa giông

Nước trút xuống mặt đất

Nước chảy tràn mọi nơi

Chỗ cao đến chỗ thấp

Người trí có tịnh tín

Và nghe nhiều học rộng

Cúng thức ăn, thức uống

Đến các bậc sa môn

Sống với hạnh khất thực

Bố thí, tâm hoan hỷ

Bảo “cúng dường, cúng dường”

‘‘Āmodamāno pakireti,

detha dethāti bhāsati;

Taṃ hissa gajjitaṃ hoti,

devasseva pavassato;

Sā puññadhārā vipulā,

dātāraṃ abhivassatī’’ti.

‘‘Như bầu trời trút mưa

Phước sung mãn phát sanh

Đến người đã cúng dường

Với tâm tư gội nhuần


‘‘Issattaṃ balavīriyañca Người trai tráng nào thiện xảo cung thuật (xạ tiễn)
yasmiṃ vijjetha māṇave mạnh mẽ và hào khí
Taṃ yuddhattho bhare rājā Được vua thu dụng khi lâm trận
nāsūraṃ jātipaccayā không bị thất sủng vì dòng dõi thọ sanh (xuất thân)
‘‘Tatheva khantisoraccaṁ dhammā yasmiṁ patiṭṭhitā

= Đối với bậc kham nhẫn và từ hoà.

Ariyavuttiṁ medhāviṁ hīnajaccampi pūjaye

= Người trí đảnh lễ bậc thánh thiện ngay cả cho dù xuất thân từ giai cấp thấp

‘‘Kāraye assame ramme tạo tịnh thất tiện nghi
vāsayettha bahussute mời thỉnh các bậc chân tu thật học
Papañca vivane kayirā

tạo hồ chứa nước nơi thâm sơn cùng cốc

dugge saṅkamanāni ca

làm đường đi chốn hoang dã

‘‘Annaṃ pānaṃ khādanīyaṃ những thức ăn, thức uống
vatthasenāsanāni ca y phục và sàng toạ
Dadeyya ujubhūtesu nên cúng dường đến bậc trực hạnh (chánh hạnh)
vippasannena cetasā Với tâm tư tịnh tín
‘‘Yathā hi megho thanayaṃ Như bầu trời đầy mây và mưa
vijjumālī satakkaku với sấm sét vang rền
Thalaṃ ninnañca pūreti abhivassaṃ vasundharaṃ

trút mưa xuống ngập tràn mặt đất phì nhiêu

‘‘Tatheva saddho sutavā abhisaṅkhacca bhojanaṃ vanibbake tappayati annapānena paṇḍito

= Cũng vậy người trí co hiểu biết sâu rộng với niềm tin làm các bữa cơm cúng dường đầy đủ thức ăn, thức uống đến những khất sĩ tu hành (sống với chánh mạng khất thực)

‘‘Āmodamāno pakireti hoan hỷ với sự cúng dường
detha dethāti bhāsati thốt lời “hãy bố thí, hãy cúng dường”
Taṃ hissa gajjitaṃ hoti devasseva pavassato lời vang nhưng thần mưa
Sā puññadhārā vipulā phước báu sung mãn phủ đầy
dātāraṃ abhivassatī’’ti gội nhuần người bố thí

Chữ dāna - bố thí trong kinh điển chỉ chung cho sự cho kể cả sự cúng dường chứ không có ý là cho những kẻ thấp kém.

Chữ pasīdati không phải là sự hoan hỷ bình thường mà là khiến tâm được thanh tịnh. Điều nầy hàm ý khi cúng dường khíến tâm không vướng vấp bởi tham danh, tham lợi, ngã chấp mà chỉ vì sự kính tin với đối tượng và bằng tâm tư thanh tịnh.

Câu kattha dānaṃ dātabba dịch sát là “nên cúng dường ở đâu” mang ý nghĩa “ai là bậc nên cúng dường”. Theo Sớ giải nhà vua hỏi câu nầy giữa đại chúng vì bấy giờ trước sự cúng dường mạnh mẽ của quần chúng đối với Đức Phật và chư tăng khiến những người ngoại giáo đố kỵ và xuyên tạc rằng Đức Phật chỉ dạy cho quần chúng cúng dường bản thân Ngài và các đệ tử. Câu hỏi tế nhị mà câu trả lời tương thích một cách ý nhị.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

4. Issattasuttaṃ [Mūla]

135. Sāvatthinidānaṃ. Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kattha nu kho, bhante, dānaṃ dātabba’’nti? ‘‘Yattha kho, mahārāja, cittaṃ pasīdatī’’ti. ‘‘Kattha pana, bhante, dinnaṃ mahapphala’’nti? ‘‘Aññaṃ kho etaṃ, mahārāja, kattha dānaṃ dātabbaṃ, aññaṃ panetaṃ kattha dinnaṃ mahapphalanti? Sīlavato kho, mahārāja, dinnaṃ mahapphalaṃ, no tathā dussīle. Tena hi, mahārāja, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā, te khameyya, tathā naṃ byākareyyāsi. Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha tyassa yuddhaṃ paccupaṭṭhitaṃ saṅgāmo samupabyūḷho [samūpabbūḷho (sī.), samupabbuḷho (pī.)]. Atha āgaccheyya khattiyakumāro asikkhito akatahattho akatayoggo akatūpāsano bhīru chambhī utrāsī palāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti? ‘‘Nāhaṃ, bhante, bhareyyaṃ taṃ purisaṃ, na ca me attho tādisena purisenā’’ti. ‘‘Atha āgaccheyya brāhmaṇakumāro asikkhito...pe... atha āgaccheyya vessakumāro asikkhito...pe... atha āgaccheyya suddakumāro asikkhito...pe... na ca me attho tādisena purisenā’’ti.

‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha tyassa yuddhaṃ paccupaṭṭhitaṃ saṅgāmo samupabyūḷho. Atha āgaccheyya khattiyakumāro susikkhito katahattho katayoggo katūpāsano abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti? ‘‘Bhareyyāhaṃ, bhante, taṃ purisaṃ, attho ca me tādisena purisenā’’ti. ‘‘Atha āgaccheyya brāhmaṇakumāro...pe... atha āgaccheyya vessakumāro...pe... atha āgaccheyya suddakumāro susikkhito katahattho katayoggo katūpāsano abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti? ‘‘Bhareyyāhaṃ, bhante, taṃ purisaṃ, attho ca me tādisena purisenā’’ti.

‘‘Evameva kho, mahārāja, yasmā kasmā cepi [yasmā cepi (sī. syā. kaṃ. ka.)] kulā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti, so ca hoti pañcaṅgavippahīno pañcaṅgasamannāgato, tasmiṃ dinnaṃ mahapphalaṃ hoti. Katamāni pañcaṅgāni pahīnāni honti? Kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thinamiddhaṃ pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā hoti. Imāni pañcaṅgāni pahīnāni honti. Katamehi pañcahaṅgehi samannāgato hoti? Asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, asekkhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena paññākkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti. Imehi pañcahaṅgehi samannāgato hoti. Iti pañcaṅgavippahīne pañcaṅgasamannāgate dinnaṃ mahapphala’’nti. Idamavoca bhagavā...pe... satthā –

‘‘Issattaṃ [issatthaṃ (sī. syā. kaṃ.)] balavīriyañca [balaviriyañca (sī. syā. kaṃ. pī.)], yasmiṃ vijjetha māṇave;

Taṃ yuddhattho bhare rājā, nāsūraṃ jātipaccayā.

‘‘Tatheva khantisoraccaṃ, dhammā yasmiṃ patiṭṭhitā;

Ariyavuttiṃ medhāviṃ, hīnajaccampi pūjaye.

‘‘Kāraye assame ramme, vāsayettha bahussute;

Papañca vivane kayirā, dugge saṅkamanāni ca.

‘‘Annaṃ pānaṃ khādanīyaṃ, vatthasenāsanāni ca;

Dadeyya ujubhūtesu, vippasannena cetasā.

‘‘Yathā hi megho thanayaṃ, vijjumālī satakkaku;

Thalaṃ ninnañca pūreti, abhivassaṃ vasundharaṃ.

‘‘Tatheva saddho sutavā, abhisaṅkhacca bhojanaṃ;

Vanibbake tappayati, annapānena paṇḍito.

‘‘Āmodamāno pakireti, detha dethāti bhāsati;

Taṃ hissa gajjitaṃ hoti, devasseva pavassato;

Sā puññadhārā vipulā, dātāraṃ abhivassatī’’ti.

4. Issattasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

135. Catutthassa aṭṭhuppattiko nikkhepo. Bhagavato kira paṭhamabodhiyaṃ mahālābhasakkāro udapādi bhikkhusaṅghassa ca. Titthiyā hatalābhasakkārā hutvā kulesu evaṃ kanthentā vicaranti – ‘‘samaṇo gotamo evamāha, ‘mayhameva dānaṃ dātabbaṃ, na aññesaṃ dānaṃ dātabbaṃ. Mayhameva sāvakānaṃ dānaṃ dātabbaṃ, na aññesaṃ sāvakānaṃ dānaṃ dātabbaṃ. Mayhameva dinnaṃ mahapphalaṃ, na aññesaṃ dinnaṃ mahapphalaṃ. Mayhameva sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphalaṃ, na aññesaṃ sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphala’nti. Yuttaṃ nu kho sayampi bhikkhācāranissitena paresaṃ bhikkhācāranissitānaṃ catunnaṃ paccayānaṃ antarāyaṃ kātuṃ, ayuttaṃ karoti ananucchavika’’nti. Sā kathā pattharamānā rājakulaṃ sampattā. Rājā sutvā cintesi – ‘‘aṭṭhānametaṃ yaṃ tathāgato paresaṃ lābhantarāyaṃ kareyya. Ete tathāgatassa alābhāya ayasāya parisakkanti. Sacāhaṃ idheva ṭhatvā ‘mā evaṃ avocuttha, na satthā evaṃ kathetī’ti vadeyyaṃ, evaṃ sā kathā nijjhattiṃ na gaccheyya, imassa mahājanassa sannipatitakāleyeva naṃ nijjhāpessāmī’’ti ekaṃ chaṇadivasaṃ āgamento tuṇhī ahosi.

Aparena samayena mahāchaṇe sampatte ‘‘ayaṃ imassa kālo’’ti nagare bheriṃ carāpesi – ‘‘saddhā vā assaddhā vā sammādiṭṭhikā vā micchādiṭṭhikā vā geharakkhake dārake vā mātugāme vā ṭhapetvā avasesā ye vihāraṃ nāgacchanti, paññāsaṃ daṇḍo’’ti. Sayampi pātova nhatvā katapātarāso sabbābharaṇapaṭimaṇḍito mahatā balakāyena saddhiṃ vihāraṃ agamāsi. Gacchanto ca cintesi – ‘‘bhagavā tumhe kira evaṃ vadatha ‘mayhameva dānaṃ dātabbaṃ...pe... na aññesaṃ sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphala’nti evaṃ pucchituṃ ayuttaṃ, pañhameva pucchissāmi, pañhaṃ kathento ca me bhagavā avasāne titthiyānaṃ vādaṃ bhañjissatī’’ti. So pañhaṃ pucchanto kattha nu kho, bhante, dānaṃ dātabbanti āha. Yatthāti yasmiṃ puggale cittaṃ pasīdati, tasmiṃ dātabbaṃ, tassa vā dātabbanti attho.

Evaṃ vutte rājā yehi manussehi titthiyānaṃ vacanaṃ ārocitaṃ, te olokesi. Te raññā olokitamattāva maṅkubhūtā adhomukhā pādaṅguṭṭhakena bhūmiṃ lekhamānā aṭṭhaṃsu. Rājā – ‘‘ekapadeneva, bhante, hatā titthiyā’’ti mahājanaṃ sāvento mahāsaddena abhāsi. Evañca pana bhāsitvā – ‘‘bhagavā cittaṃ nāma nigaṇṭhācelakaparibbājakādīsu yattha katthaci pasīdati, kattha pana, bhante, dinnaṃ mahapphala’’nti pucchi. Aññaṃ kho etanti, ‘‘mahārāja, aññaṃ tayā paṭhamaṃ pucchitaṃ, aññaṃ pacchā, sallakkhehi etaṃ, pañhākathanaṃ pana mayhaṃ bhāro’’ti vatvā sīlavato khotiādimāha. Tattha idha tyassāti idha te assa. Samupabyūḷhoti rāsibhūto. Asikkhitoti dhanusippe asikkhito. Akatahatthoti muṭṭhibandhādivasena asampāditahattho. Akatayoggoti tiṇapuñjamattikāpuñjādīsu akataparicayo. Akatūpāsanoti rājarājamahāmattānaṃ adassitasarakkhepo. Chambhīti pavedhitakāyo.

Kāmacchando pahīnotiādīsu arahattamaggena kāmacchando pahīno hoti, anāgāmimaggena byāpādo, arahattamaggeneva thinamiddhaṃ, tathā uddhaccaṃ, tatiyeneva kukkuccaṃ, paṭhamamaggena vicikicchā pahīnā hoti. Asekkhena sīlakkhandhenāti asekkhassa sīlakkhandho asekkho sīlakkhandho nāma. Esa nayo sabbattha. Ettha ca purimehi catūhi padehi lokiyalokuttarasīlasamādhipaññāvimuttiyo kathitā. Vimuttiñāṇadassanaṃ paccavekkhaṇañāṇaṃ hoti, taṃ lokiyameva.

Issattanti ususippaṃ. Balavīriyanti ettha balaṃ nāma vāyodhātu, vīriyaṃ kāyikacetasikavīriyameva. Bhareti bhareyya. Nāsūraṃ jātipaccayāti, ‘‘ayaṃ jātisampanno’’ti evaṃ jātikāraṇā asūraṃ na bhareyya.

Khantisoraccanti ettha khantīti adhivāsanakhanti, soraccanti arahattaṃ. Dhammāti ete dve dhammā. Assameti āvasathe. Vivaneti araññaṭṭhāne, nirudake araññe caturassapokkharaṇiādīni kārayeti attho. Duggeti visamaṭṭhāne. Saṅkamanānīti paṇṇāsahatthasaṭṭhihatthāni samokiṇṇaparisuddhavālikāni saṅkamanāni kareyya.

Idāni etesu araññasenāsanesu vasantānaṃ bhikkhūnaṃ bhikkhācāravattaṃ ācikkhanto annaṃ pānantiādimāha. Tattha senāsanānīti mañcapīṭhādīni. Vippasannenāti khīṇāsavassa dentopi sakaṅkhena kilesamalinena cittena adatvā vippasanneneva cittena dadeyya. Thanayanti gajjanto. Satakkakūti satasikharo, anekakūṭoti attho. Abhisaṅkhaccāti abhisaṅkharitvā samodhānetvā rāsiṃ katvā.

Āmodamānoti tuṭṭhamānaso hutvā. Pakiretīti dānagge vicirati, pakiranto viya vā dānaṃ deti. Puññadhārāti anekadānacetanāmayā puññadhārā. Dātāraṃ abhivassatīti yathā ākāse samuṭṭhitameghato nikkhantā udakadhārā pathaviṃ sinehayantī tementī kiledayantī abhivassati, evameva ayampi dāyakassa abbhantare uppannā puññadhārā tameva dātāraṃ anto sineheti pūreti abhisandeti. Tena vuttaṃ ‘‘dātāraṃ abhivassatī’’ti. Catutthaṃ.

Ý kiến bạn đọc