Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - ĐÃ MIỄN NHIỄM THÌ ĐỘC NÀO CŨNG KHÔNG SỢ - Kinh Ma Nữ (Māradhītusuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - ĐÃ MIỄN NHIỄM THÌ ĐỘC NÀO CŨNG KHÔNG SỢ - Kinh Ma Nữ (Māradhītusuttaṃ)

Thứ bảy, 02/04/2022, 20:02 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 2.4.2022


ĐÃ MIỄN NHIỄM THÌ ĐỘC NÀO CŨNG KHÔNG SỢ

Kinh Ma Nữ (Māradhītusuttaṃ)

(CHƯƠNG IV. TƯƠNG ƯNG ÁC MA, PHẨM THỨ BA) (S.i, 124)

Phật là bậc đoạn tân vô minh và ái dục. Các Ngài không có bất cứ giao động nào với những gì khả lạc, khả ái hay ngược lại là những nghịch cảnh. Ác ma vốn cao tay còn không cám dỗ được Đức Phật nói chi đến con của Ác ma. Như một người hoàn toàn miễn nhiễm thì cho dù độc tố nhiều hay ít không là vấn đề. Những con gái của Ma vương vốn hoàn toàn tự tin ở sức quyến rũ vô song của ái dục nên định giúp cha thắng Phật. Kết quả là hoàn toàn thất bại. Nhiều học giả cho rằng sự cám dỗ của Ác Ma đối với Phật có thể có ảnh hưởng lớn trong hệ thần học Ky Tô giáo khi nói về sự cám dỗ (temptation) của Satan.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena māro pāpimā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu –

Bấy giờ các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā đi đến Ác ma và nói lên kệ ngôn:

‘‘Kenāsi dummano tāta, purisaṃ kaṃ nu socasi;

Mayaṃ taṃ rāgapāsena, āraññamiva kuñjaraṃ;

Bandhitvā ānayissāma, vasago te bhavissatī’’ti.

Sao buồn nản hỡi Cha?

Vì ai Cha phiền muộn?

Chúng con giăng bẫy ái

Như cách bắt voi rừng

Cột trói và mang về

Để cho Cha sai sử

‘‘Arahaṃ sugato loke, na rāgena suvānayo;

Māradheyyaṃ atikkanto, tasmā socāmahaṃ bhusa’’nti.

(Ác ma)

Đấng Ứng Cúng La hán,

Đức Thiện Thệ ở đời

Bậc vượt khỏi Ma giới

Không dễ dùng bẫy ái

Để thu phục vị ấy.

Nên khiến ta sầu não.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ –

Rồi các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā đi đến Thế Tôn và nói lên kệ ngôn.

‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti.

-- Thưa Sa-môn, chúng con xin hầu hạ dưới chân Ngài.

Atha kho bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Nhưng Thế Tôn không để tâm đến, vì Ngài đã chứng vô thượng giải thoát , đoạn tận mọi sở y.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma evaṃ samacintesuṃ – ‘‘uccāvacā kho purisānaṃ adhippāyā. Yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ kumārivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmā’’ti.

Rồi các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā đi qua một bên và hội ý: "Thị dục của con người dị biệt khác nhau. Chúng ta biến hình thành một trăm kiều nữ".

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekasataṃ ekasataṃ kumārivaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti.

Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā biến hình thành một trăm kiều nữ đi đến Thế Tôn và nói:

Thưa Sa-môn, chúng con xin hầu hạ dưới chân Ngài.

Nhưng Thế Tôn không để tâm đến, vì Ngài đã chứng vô thượng giải thoát , đoạn tận mọi sở y.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma evaṃ samacintesuṃ – ‘‘uccāvacā kho purisānaṃ adhippāyā. Yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ avijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmā’’ti.

Các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā .. biến hình thành một trăm thiếu phụ chưa có con …

Nhưng Thế Tôn không để tâm đến, vì Ngài đã chứng vô thượng giải thoát , đoạn tận mọi sở y.

Atha kho taṇhā ca...pe... yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ sakiṃ vijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe... sakiṃ vijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā .. biến hình thành một trăm thiếu phụ có một con …

Nhưng Thế Tôn không để tâm đến, vì Ngài đã chứng vô thượng giải thoát , đoạn tận mọi sở y.

Atha kho taṇhā ca...pe... yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ duvijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe... duvijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā... pe... yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā .. biến hình thành một trăm thiếu phụ có hai con …

Nhưng Thế Tôn không để tâm đến, vì Ngài đã chứng vô thượng giải thoát, đoạn tận mọi sở y.

Atha kho taṇhā ca...pe... majjhimitthivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe... majjhimitthivaṇṇasataṃ abhinimminitvā...pe... anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā ... biến hình thành một trăm thiếu phụ trung niên …

Nhưng Thế Tôn không để tâm đến, vì Ngài đã chứng vô thượng giải thoát, đoạn tận mọi sở y.

Atha kho taṇhā ca...pe... mahitthivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe...mahitthivaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā...pe... anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā .. biến hình thành một trăm thiếu phụ lớn tuổi …

Nhưng Thế Tôn không để tâm đến, vì Ngài đã chứng vô thượng giải thoát, đoạn tận mọi sở y.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma etadavocuṃ – saccaṃ kira no pitā avoca –

Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục đi qua một bên nói với nhau

-- Những Cha chúng ta nói quả là đúng sự thật:

‘‘Arahaṃ sugato loke, na rāgena suvānayo;

Māradheyyaṃ atikkanto, tasmā socāmahaṃ bhusa’’nti.

Đấng Ứng Cúng La hán,

Đức Thiện Thệ ở đời

Bậc vượt khỏi Ma giới

Không dễ dùng bẫy ái

Để thu phục vị ấy.

Nên khiến ta sầu não.

‘‘Yañhi mayaṃ samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā avītarāgaṃ iminā upakkamena upakkameyyāma hadayaṃ vāssa phaleyya, uṇhaṃ lohitaṃ vā mukhato uggaccheyya, ummādaṃ vā pāpuṇeyya cittakkhepaṃ vā. Seyyathā vā pana naḷo harito luto ussussati visussati milāyati; evameva ussusseyya visusseyya milāyeyyā’’ti.

Phương cách mà chúng ta dùng nếu với bất cứ vị sa môn hay bà la môn nào chưa hết tham ái nếu trái tim không vỡ ra thì miệng cũng thổ huyết nóng hoặc cuồng tâm loạn trí hay héo úa khô cằn như lau sậy bị cắt đứt.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho taṇhā māradhītā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Rồi các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā đi đến trước Thế Tôn và ma nữ Taṇhā nói lên kệ ngôn:

‘‘Sokāvatiṇṇo nu vanamhi jhāyasi,

Vittaṃ nu jīno uda patthayāno;

Āguṃ nu gāmasmimakāsi kiñci,

Kasmā janena na karosi sakkhiṃ;

Sakkhī na sampajjati kenaci te’’ti.

Ưu sầu thiền trong rừng

Mất của hay muốn của?

Hay phạm pháp trong làng?

Sao không bạn với ai?

Sao không người thân thích?

‘‘Atthassa pattiṃ hadayassa santiṃ,

Jetvāna senaṃ piyasātarūpaṃ;

Ekohaṃ jhāyaṃ sukhamanubodhiṃ,

Tasmā janena na karomi sakkhiṃ;

Sakkhī na sampajjati kenaci me’’ti.

(Thế Tôn)

Đạt cứu cánh, an tịnh

Đã chiến thắng ma quân

Khả ái, không khả ái

Thiền một mình tịnh lạc

Không cần bạn với ai

Cũng chẳng màng thân thiết.

Atha kho arati [arati ca (ka.)] māradhītā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Ma nữ Arati nói lên kệ ngôn:

‘‘Kathaṃ vihārībahulodha bhikkhu,

Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ;

Kathaṃ jhāyiṃ bahulaṃ kāmasaññā,

Paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti.

Tỳ khưu làm thế nào

Đã vượt năm bộc lưu

Lại cố vượt thứ sáu?

Làm sao để thiền định

Mà những thứ dục tưởng

Được điều phục chế ngự

Không chi phối vị ấy?

‘‘Passaddhakāyo suvimuttacitto,

Asaṅkharāno satimā anoko;

Aññāya dhammaṃ avitakkajhāyī,

Na kuppati na sarati na thino.

‘‘Evaṃvihārībahulodha bhikkhu,

Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ;

Evaṃ jhāyiṃ bahulaṃ kāmasaññā,

Paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti.

(Thế Tôn):

Thân tịnh, tâm giải thoát

Vô hành, sống chánh niệm

Ly gia, liễu tri pháp

Thiền định không suy tầm

Không manh động, vọng động,

Tâm nhu nhuyến thuần hoá

Ấy vượt năm bộc lưu,

Vượt giòng lũ thứ sáu

Mà những thứ dục tưởng

Được điều phục chế ngự

Không chi phối vị ấy.

Atha kho ragā [ragāca (ka.)] māradhītā bhagavato santike gāthāya ajjhabhāsi –

Ma nữ Ragā nói lên kệ ngôn:

‘‘Acchejja taṇhaṃ gaṇasaṅghacārī,

Addhā carissanti bahū ca saddhā;

Bahuṃ vatāyaṃ janataṃ anoko,

Acchejja nessati maccurājassa pāra’’nti.

Bậc đoạn tận khát ái

Sống giữa chúng đồng tu

Chắc hẳn có nhiều vị

Cũng sẽ được giải thoát

Và hướng dẫn quần sanh

Đồng thoát khỏi Ma giới.

‘‘Nayanti ve mahāvīrā, saddhammena tathāgatā;

Dhammena nayamānānaṃ, kā usūyā vijānata’’nti.

(Thế Tôn)

Như Lai bậc Đại Hùng

Hướng dẫn bằng chánh pháp

Giác Giả giảng chân pháp

Người hiểu không đố kỵ

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena māro pāpimā tenupasaṅkamiṃsu.

Rồi các ma nữ con gái của Ma vưong là Taṇhā, Arati, Ragā đi đến Ác ma

Addasā kho māro pāpimā taṇhañca aratiñca ragañca māradhītaro dūratova āgacchantiyo. Disvāna gāthāhi ajjhabhāsi –

Từ xa Ác ma thấy các ma nữ Taṇhā, Arati, Ragā đi đến liền nói:

‘‘Bālā kumudanāḷehi, pabbataṃ abhimatthatha;

Giriṃ nakhena khanatha, ayo dantehi khādatha.

‘‘Selaṃva sirasūhacca pātāle gādhamesatha;

Khāṇuṃva urasāsajja, nibbijjāpetha gotamā’’ti.

Các ngươi đúng là ngu

Lấy cành sen đào núi

Lấy móng tay phá thạch

Lấy răng nhau sắt thép.

Lấy đầu nhấc đá tảng

Tìm chỗ đứng vực sâu

Lấy ngực dập cọc nhọn

Buồn rời Gotama

‘‘Daddallamānā āgañchuṃ, taṇhā ca aratī ragā;

Tā tattha panudī satthā, tūlaṃ bhaṭṭhaṃva māluto’’ti.

Đến với bao diễm lệ

Taṇhā, Arati,

Và Ragā cùng đi

Bậc Đạo Sư quét sạch

Như gió thổi bông gòn

Dịch và biên soạn giáo trình: Tỳ kheo Giác Đẳng

-ooOoo-

‘‘Kenāsi dummano tata = Tại sao Cha áo não vậy?

purisaṃ kaṃ nu socasi = Cha buồn phiền ai thế?

Mayaṃ taṃ rāgapāsena = Chúng con sẽ giăng bẫy ái bắt người ấy

āraññamiva kuñjaraṃ = Như voi trong rừng

Bandhitvā ānayissāma =Sau khi cột trói sẽ mang về

vasago te bhavissatī’’ti = Người ấy sẽ nằm trong sự sai sử của Cha

‘‘Arahaṃ sugato loke = Bậc Ứng Cúng, Thiện Thệ ở đời

na rāgena suvānayo = Không dễ thu phục bằng ái luyến

Māradheyyaṃ atikkanto = Đã vượt khỏi cương toả Ma giới

tasmā socāmahaṃ bhusa’’nti = Đó là lý do tai sao ta ưu phiền

‘‘Sokāvatiṇṇo nu vanamhi jhāyasi = Có phải vì sầu muộn Ngài thiền định trong rừng?

Vittaṃ nu jīno uda patthayāno = Vì mất mát của cải hay mong muốn của cải?

Āguṃ nu gāmasmimakāsi kiñci = Hay đã phạm tội gì ở trong làng?

Kasmā janena na karosi sakkhiṃ = Sao không làm bạn với ai?

Sakkhī na sampajjati kenaci te’’ti = Sao không có quan hệ thân thiết gì?

‘‘Atthassa pattiṃ hadayassa santiṃ = Đã đạt được cứu cánh, tâm an ổn

Jetvāna senaṃ piyasātarūpaṃ = chiến thắng ma quân khả ý, bất khả ý

Ekohaṃ jhāyaṃ sukhamanubodhiṃ = Độc cư thiền tịnh, thể nghiệm tịnh lạc

Tasmā janena na karomi sakkhiṃ = Nên chi ta không kết bạn với mọi người

Sakkhī na sampajjati kenaci me’’ti = Cũng không có quan hệ thân thiết

‘‘Kathaṃ vihārībahulodha bhikkhu = Làm thế nào mà tỳ khưu thường an trú

Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ = Vượt giòng lũ thứ sáu sau khi đã vượt năm bộc lưu

Kathaṃ jhāyiṃ bahulaṃ kāmasaññā paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti = Làm sao để thiền với nhiều dục tưởng được tách biệt và điều phục?

‘‘Passaddhakāyo suvimuttacitto = Thân an tịnh, tâm khéo giải thoát

Asaṅkharāno satimā anoko = Không tầm cầu, chánh niệm, ly gia

Aññāya dhammaṃ avitakkajhāyī = Hiểu rõ pháp, thiền tư không suy tầm

Na kuppati na sarati na thino = Không phản ứng, không buông thả, không chai lì

‘‘Evaṃvihārībahulodha bhikkhu = Như vậy là tỳ khưu thường an trú

Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ = Vượt giòng lũ thứ sáu sau khi đã vượt năm bộc lưu

Evaṃ jhāyiṃ bahulaṃ kāmasaññā paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti = Như vậy là thiền định với những dục tưởng đưọc tách biệt và điều phục.

‘‘Acchejja taṇhaṃ gaṇasaṅghacārī = Vị ấy sống với tăng chúng sau khi ái đã đoạn tận

Addhā carissanti bahū ca saddhā = Chắc chắn nhiều vị có niềm tin sẽ vượt giòng

Bahuṃ vatāyaṃ janataṃ anoko = Ô hay, vị ly gia ấy chắc chắn kéo theo nhiều người khác

Acchejja nessati maccurājassa pāra’’nt= dẫn họ thoát khỏi cảnh giới của Tử thần.

‘‘Nayanti ve mahāvīrā = Những Bậc Đại Hùn dẫn dắt

saddhammena tathāgatā = Các Đấng Như Lai với diệu pháp

Dhammena nayamānānaṃ = Hướng dẫn với chánh pháp

kā usūyā vijānata’’nti = Làm sao mà người hiểu biết lại đố kỵ?

‘‘Bālā kumudanāḷehi pabbataṃ abhimatthatha = Những kẻ ngu! Di sơn núi với cành sen.

Giriṃ nakhena khanatha = phá thạch với móng tay

ayo dantehi khādatha = dùng răng để nhai sắt

‘‘Selaṃva sirasūhacca = lấy đầu để nhấc đá tảng

pātāle gādhamesatha =tìm chỗ đứng tại vực sâu

Khāṇuṃva urasāsajja = dùng ngực đóng cọc nhọn

nibbijjāpetha gotamā’’ti = buồn bỏ Gotama

‘‘Daddallamānā āgañchuṃ = Họ đã đến trong sự kiều mị

taṇhā ca aratī ragā = Taṇhā Aratī và Ragā

Tā tattha panudī satthā = Bậc Đạo Sư đã quét sạch tại ấy

tūlaṃ bhaṭṭhaṃva māluto’’ti = Như gió thổi bông gòn

Ba ma nữ có tên Taṇhā, Arati, Ragā mang ý nghĩa Khao Khát, Không Thoả Mãn, và Nhục cảm.

Thí dụ về cách bắt voi rừng được Sớ giải chú thích là ngườ ta muốn bắt voi thì dùng voi cái gợi dục dẫn voi đực vào bẫy.

Thành ngữ pāde te samanạ paricārema dịch là hầu hạ dưới chân có nghĩa là làm nô lệ ái tình, đây là một trong những cách gợi dục.

Chữ sena – ma quân – theo Sớ giải ở đây chỉ cho phiền não

Năm bộc lưu hay thác lũ chỉ cho sự cuốn hút qua năm căn môn là nhãn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn và thân môn. Bộc lưu thứ sáu là phiền não qua ý môn.

Chữ sena – ma quân – theo Sớ giải ở đây chỉ cho phiền não.

Theo Sớ Giải thì thân tịnh (passaddhikāyo) chỉ thiền chứng và tâm giải thoát (suvimuttacitto) chỉ cho tuệ giác.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

5. Māradhītusuttaṃ [Mūla]

161. Atha kho māro pāpimā bhagavato santike imā nibbejanīyā gāthāyo abhāsitvā tamhā ṭhānā apakkamma bhagavato avidūre pathaviyaṃ pallaṅkena nisīdi tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno kaṭṭhena bhūmiṃ vilikhanto. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena māro pāpimā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu –

‘‘Kenāsi dummano tāta, purisaṃ kaṃ nu socasi;

Mayaṃ taṃ rāgapāsena, āraññamiva kuñjaraṃ;

Bandhitvā ānayissāma, vasago te bhavissatī’’ti.

‘‘Arahaṃ sugato loke, na rāgena suvānayo;

Māradheyyaṃ atikkanto, tasmā socāmahaṃ bhusa’’nti.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Atha kho bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma evaṃ samacintesuṃ – ‘‘uccāvacā kho purisānaṃ adhippāyā. Yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ kumārivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmā’’ti. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekasataṃ ekasataṃ kumārivaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma evaṃ samacintesuṃ – ‘‘uccāvacā kho purisānaṃ adhippāyā. Yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ avijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmā’’ti. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekasataṃ ekasataṃ avijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Atha kho taṇhā ca...pe... yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ sakiṃ vijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe... sakiṃ vijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Atha kho taṇhā ca...pe... yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ duvijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe... duvijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā... pe... yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. Atha kho taṇhā ca...pe... majjhimitthivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe... majjhimitthivaṇṇasataṃ abhinimminitvā...pe... anuttare upadhisaṅkhaye vimutto.

Atha kho taṇhā ca...pe... mahitthivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca...pe...mahitthivaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā...pe... anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma etadavocuṃ – saccaṃ kira no pitā avoca –

‘‘Arahaṃ sugato loke, na rāgena suvānayo;

Māradheyyaṃ atikkanto, tasmā socāmahaṃ bhusa’’nti.

‘‘Yañhi mayaṃ samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā avītarāgaṃ iminā upakkamena upakkameyyāma hadayaṃ vāssa phaleyya, uṇhaṃ lohitaṃ vā mukhato uggaccheyya, ummādaṃ vā pāpuṇeyya cittakkhepaṃ vā. Seyyathā vā pana naḷo harito luto ussussati visussati milāyati; evameva ussusseyya visusseyya milāyeyyā’’ti.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho taṇhā māradhītā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Sokāvatiṇṇo nu vanamhi jhāyasi,

Vittaṃ nu jīno uda patthayāno;

Āguṃ nu gāmasmimakāsi kiñci,

Kasmā janena na karosi sakkhiṃ;

Sakkhī na sampajjati kenaci te’’ti.

‘‘Atthassa pattiṃ hadayassa santiṃ,

Jetvāna senaṃ piyasātarūpaṃ;

Ekohaṃ [ekāhaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] jhāyaṃ sukhamanubodhiṃ,

Tasmā janena na karomi sakkhiṃ;

Sakkhī na sampajjati kenaci me’’ti.

Atha kho arati [arati ca (ka.)] māradhītā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Kathaṃ vihārībahulodha bhikkhu,

Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ;

Kathaṃ jhāyiṃ [kathaṃ jhāyaṃ (syā. kaṃ. pī.), kathajjhāyaṃ (ka.)] bahulaṃ kāmasaññā,

Paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti.

‘‘Passaddhakāyo suvimuttacitto,

Asaṅkharāno satimā anoko;

Aññāya dhammaṃ avitakkajhāyī,

Na kuppati na sarati na thino [na kuppatī nassaratī na thīno (sī.)].

‘‘Evaṃvihārībahulodha bhikkhu,

Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ;

Evaṃ jhāyiṃ bahulaṃ kāmasaññā,

Paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti.

Atha kho ragā [ragāca (ka.)] māradhītā bhagavato santike gāthāya ajjhabhāsi –

‘‘Acchejja taṇhaṃ gaṇasaṅghacārī,

Addhā carissanti [tarissanti (sī.)] bahū ca saddhā;

Bahuṃ vatāyaṃ janataṃ anoko,

Acchejja nessati maccurājassa pāra’’nti.

‘‘Nayanti ve mahāvīrā, saddhammena tathāgatā;

Dhammena nayamānānaṃ, kā usūyā vijānata’’nti.

Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena māro pāpimā tenupasaṅkamiṃsu. Addasā kho māro pāpimā taṇhañca aratiñca ragañca māradhītaro dūratova āgacchantiyo. Disvāna gāthāhi ajjhabhāsi –

‘‘Bālā kumudanāḷehi, pabbataṃ abhimatthatha [abhimanthatha (sī.)];

Giriṃ nakhena khanatha, ayo dantehi khādatha.

‘‘Selaṃva sirasūhacca [sirasi ūhacca (sī.), sirasi ohacca (syā. kaṃ.)], pātāle gādhamesatha;

Khāṇuṃva urasāsajja, nibbijjāpetha gotamā’’ti.

‘‘Daddallamānā āgañchuṃ, taṇhā ca aratī ragā;

Tā tattha panudī satthā, tūlaṃ bhaṭṭhaṃva māluto’’ti.

5. Māradhītusuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

161. Pañcame abhāsitvāti ettha a-kāro nipātamattaṃ, bhāsitvāti attho. Abhāsayitvātipi pāṭho. Upasaṅkamiṃsūti ‘‘gopālakadārakaṃ viya daṇḍakena bhūmiṃ lekhaṃ datvā ativiya dummano hutvā nisinno. ‘Kinnu kho kāraṇa’nti? Pucchitvā, jānissāmā’’ti upasaṅkamiṃsu.

Socasīti cintesi. Āraññamiva kuñjaranti yathā araññato pesitagaṇikārahatthiniyo āraññakaṃ kuñjaraṃ itthikuttadassanena palobhetvā bandhitvā ānayanti, evaṃ ānayissāma. Māradheyyanti tebhūmakavaṭṭaṃ.

Upasaṅkamiṃsūti – ‘‘tumhe thokaṃ adhivāsetha, mayaṃ taṃ ānessāmā’’ti pitaraṃ samassāsetvā upasaṅkamiṃsu. Uccāvacāti nānāvidhā. Ekasataṃ ekasatanti ekekaṃ sataṃ sataṃ katvā. Kumārivaṇṇasatanti iminā nayena kumāriattabhāvānaṃ sataṃ.

Atthassa pattiṃ hadayassa santinti, dvīhipi padehi arahattameva kathesi. Senanti kilesasenaṃ. Sā hi piyarūpasātarūpā nāma. Ekāhaṃ jhāyanti eko ahaṃ jhāyanto. Sukhamanubodhinti arahattasukhaṃ anubujjhiṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – piyarūpaṃ sātarūpaṃ senaṃ jinitvā ahaṃ eko jhāyanto ‘‘atthassa pattiṃ hadayassa santi’’nti saṅkhaṃ gataṃ arahattasukhaṃ anubujjhiṃ. Tasmā janena mittasanthavaṃ na karomi, teneva ca me kāraṇena kenaci saddhiṃ sakkhī na sampajjatīti.

Kathaṃvihārībahuloti katamena vihārena bahulaṃ viharanto. Aladdhāti alabhitvā. Yoti nipātamattaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – katamena jhānena bahulaṃ jhāyantaṃ taṃ puggalaṃ kāmasaññā alabhitvāva paribāhirā hontīti.

Passaddhakāyoti catutthajjhānena assāsapassāsakāyassa passaddhattā passaddhakāyo. Suvimuttacittoti arahattaphalavimuttiyā suṭṭhu vimuttacitto. Asaṅkharānoti tayo kammābhisaṅkhāre anabhisaṅkharonto. Anokoti anālayo. Aññāya dhammanti catusaccadhammaṃ jānitvā. Avitakkajhāyīti avitakkena catutthajjhānena jhāyanto. Na kuppatītiādīsu dosena na kuppati, rāgena na sarati, mohena na thīno. Imesu tīsu mūlakilesesu gahitesu diyaḍḍhakilesasahassaṃ gahitameva hoti. Paṭhamapadena vā byāpādanīvaraṇaṃ gahitaṃ, dutiyena kāmacchandanīvaraṇaṃ, tatiyena thinaṃ ādiṃ katvā sesanīvaraṇāni. Iti iminā nīvaraṇappahānena khīṇāsavaṃ dasseti.

Pañcoghatiṇṇoti pañcadvārikaṃ kilesoghaṃ tiṇṇo. Chaṭṭhanti manodvārikampi chaṭṭhaṃ kilesoghaṃ atari. Pañcoghaggahaṇena vā pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni, chaṭṭhaggahaṇena pañcuddhambhāgiyāni veditabbāni. Gaṇasaṅghacārīti gaṇe ca saṅghe ca caratīti satthā gaṇasaṅghacārī nāma. Addhā carissantīti aññepi saddhā bahujanā ekaṃsena carissanti. Ayanti ayaṃ satthā. Anokoti anālayo.

Acchejja nessatīti acchinditvā nayissati, maccurājassa hatthato acchinditvā nibbānapāraṃ nayissatīti vuttaṃ hoti. Nayamānānanti nayamānesu.

Selaṃva sirasūhacca, pātāle gādhamesathāti mahantaṃ kūṭāgārappamāṇaṃ silaṃ sīse ṭhapetvā pātāle patiṭṭhagavesanaṃ viya. Khāṇuṃva urasāsajjāti urasi khāṇuṃ paharitvā viya. Apethāti apagacchatha. Imasmiṃ ṭhāne saṅgītikārā ‘‘idamavocā’’ti desanaṃ niṭṭhapetvā daddallamānāti gāthaṃ āhaṃsu. Tattha daddallamānāti ativiya jalamānā sobhamānā. Āgañchunti āgatā. Panudīti nīhari. Tūlaṃ bhaṭṭhaṃva mālutoti yathā phalato bhaṭṭhaṃ simbalitūlaṃ vā poṭakitūlaṃ vā vāto panudati nīharati, evaṃ panudīti. Pañcamaṃ.

Ý kiến bạn đọc