Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | CÚNG DƯỜNG, XƯNG TÁN TRONG Ý NGHĨA CHÂN THỰC - Kinh Cīrā (Cīrāsuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ | CÚNG DƯỜNG, XƯNG TÁN TRONG Ý NGHĨA CHÂN THỰC - Kinh Cīrā (Cīrāsuttaṃ)

Thứ tư, 02/11/2022, 16:11 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 2.11.2022


CÚNG DƯỜNG, XƯNG TÁN TRONG Ý NGHĨA CHÂN THỰC

Kinh Cīrā (Cīrāsuttaṃ)

CHƯƠNG X. TƯƠNG DẠ XOA (S. i, 212)

Cúng dường và xưng tán là hai sự hành trì thường có trong hầu hết các tôn giáo. Hai điều nầy thường liên quan tới nghi lễ. Thế nhưng trong Phật Pháp sự xưng tán cúng dường cao quý nhất được hiểu với ý nghĩa thực tiễn. Bài kinh tuy ngắn nhưng cũng nói lên một đặc điểm khác của người có trí là tán thán bậc đáng tán thán. Sự việc một người cúng dường nhu yếu đến một tỳ khưu ni đôi khi không có gì đáng nói với phần đông. Nhưng dạ xoa trong bài kinh nầy hiểu được đặc điểm thù thắng ở cả hai người cúng dường và người nhận cúng dường. Người thọ thí ở đây là một thánh ni thanh tịnh không còn phiền não; người cúng dường là người hiểu rõ giá trị phước sự đang làm nên được gọi là bậc trí. Tán thán bậc trí đúng nghĩa cũng được xem là người trí.

Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena aññataro upāsako cīrāya [cirāya (ka.)] bhikkhuniyā cīvaraṃ adāsi.

Tôi được nghe như vầy,

Một thuở Đức Thế Tôn ngự ở Rājagaha (Vương Xá), trong Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivāpe (chỗ cho sóc ăn)

Bấy giờ, một nam cư sĩ cúng dường pháp phục đến tỳ khưu ni Cīrā.

Atha kho cīrāya bhikkhuniyā abhippasanno yakkho rājagahe rathikāya rathikaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

Một dạ xoa với tín tâm mạnh mẽ nơi tỳ khưu ni Cīrā đi từ đường nầy qua đường khác, từ nới nầy sang nơi nọ ở Rājagaha (Vương Xá) vừa đi vừa nói kệ ngôn:

‘‘Puññaṃ vata pasavi bahuṃ, sappañño vatāyaṃ upāsako;

Yo cīrāya adāsi cīvaraṃ, sabbayogehi vippamuttiyā’’ti.

“Thiện nam là trí giả

Đã tạo nhiều phước lành

Dâng y đến Cīrā

Bậc thoát mọi triền phược.

‘‘Puññaṃ vata pasavi bahuṃ = Vị ấy đã tạo nhiều phước báu

sappañño vatāyaṃ upāsako = Nam cư sĩ nầy quả thật là bậc trí

Yo cīrāya adāsi cīvaraṃ = người đã dâng y cho Cīrā

sabbaganthehi vippamuttiyā’’ti = bậc đã giải thoát mọi cột trói

Theo Sớ giải Kinh Pháp Cú, Thánh ni Cīrā chứng quả a la hán và đắc lục thông từ lúc là một sa di ni mới bảy tuổi. Khi Đức Thế Tôn tuyên bố Ngài sẽ hiển hoá thần thông để hàng phục ngoại đạo thì có nhiều đệ tử xin được làm việc ấy thay cho Đức Phật. Trong số nầy có sa di ni Cīrā.

Cúng dường bậc xứng đáng cúng dường (pūjā ca pūjanīyānaṃ) là một trong những dấu hiệu cát tường tối thượng. Ở phương diện khác, người Ấn Độ thường quan niệm pūjā (tế tự) là nghi lễ cúng kiến nhưng theo lời Phật dạy thì sự khiêm hạ cung kính trước những bậc giới đức thanh tịnh là tế tự cao quý nhất.

Chữ cīvara có nghĩa là y phục đưọc xem là một trong bốn nhu yếu tối thiểu của người xuất gia (y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc trị bệnh). Dịch là pháp phục vì chữ nầy hàm nghĩa tương đồng với chữ kāsāva (y ca sa) là y với màu sắc và cách may mặc theo đúng luật nghi mà Đức Phật ban hành.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

11. Cīrāsuttaṃ [Mūla]

245. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena aññataro upāsako cīrāya [cirāya (ka.)] bhikkhuniyā cīvaraṃ adāsi. Atha kho cīrāya bhikkhuniyā abhippasanno yakkho rājagahe rathikāya rathikaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –

‘‘Puññaṃ vata pasavi bahuṃ, sappañño vatāyaṃ upāsako;˜

Yo cīrāya adāsi cīvaraṃ, sabbayogehi vippamuttiyā’’ti [vippamuttāyāti (syā. kaṃ.)].

10-11. Dutiyasukkāsuttādivaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

244. Dasame puññaṃ vata pasavi bahunti bahuṃ vata puññaṃ pasavatīti. Dasamaṃ.

245. Ekādasamaṃ uttānameva. Ekādasamaṃ.

Ý kiến bạn đọc