Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CỘI NGUỒN CŨNG BỞI LÒNG NGƯỜI MÀ RA - Kinh Nội Tại (Ajjhattasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ || CỘI NGUỒN CŨNG BỞI LÒNG NGƯỜI MÀ RA - Kinh Nội Tại (Ajjhattasuttaṃ)

Thứ ba, 19/11/2024, 04:34 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 21.9.2024

CỘI NGUỒN CŨNG BỞI LÒNG NGƯỜI MÀ RA

Kinh Nội Tại (Ajjhattasuttaṃ)

Tập III – Uẩn

Chương I. Tương Ưng Uẩn-Phần III-Phẩm Kiến (S,iii,150)

Khổ vui vốn là chuyện tất nhiên phải có của kiếp người. Rất ít người nhận ra phần lớn niềm vui, nỗi khổ đến từ cái nhìn thiếu trung thực về tự nhiên. Khi vạn hữu vô thường mà đòi hỏi phải trường tồn thì không thể không đau khổ. Cái khổ và ngay cả cái vui đến từ nhận thức thiếu chân xác, cuối cùng sẽ dẫn đến thất vọng phiền muộn. Sự an nhiên phải đến từ khả năng chấp nhận bản chất tự nhiên.

Kinh văn

Sāvatthinidānaṃ. “kismiṃ nu kho, bhikkhave, sati, kiṃ upādāya uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhan”ti? bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā ... pe ... “rūpe kho, bhikkhave, sati rūpaṃ upādāya uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. vedanāya sati ... pe ... saññāya sati... saṅkhāresu sati... viññāṇe sati viññāṇaṃ upādāya uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ. taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti? “aniccaṃ, bhante”. “yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti? “dukkhaṃ, bhante”. “yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, api nu taṃ anupādāya uppajjeyya ajjhattaṃ sukhadukkhan”ti? “no hetaṃ, bhante”. “vedanā ... pe ... saññā... saṅkhārā... viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti? “aniccaṃ, bhante”. “yaṃ panāniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti? “dukkhaṃ, bhante”. “yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, api nu taṃ anupādāya uppajjeyya ajjhattaṃ sukhadukkhan”ti? “no hetaṃ, bhante”. “evaṃ passaṃ ... pe ... nāparaṃ itthattāyāti pajānātī”ti. paṭhamaṃ.

Tại Sāvatthī.

"Này chư Tỳ khưu, cảm giác vui khổ nội tại khởi lên khi có điều gì, dựa vào điều gì?"

"Bạch Đức Thế Tôn, các giáo nghĩa đều y chỉ ở Thế Tôn ..."

"Này chư Tỳ khưu, khi có sắc, dựa vào sắc mà khởi lên cảm giác vui khổ nội tại. Khi có thọ ... cho đến ... khi có tưởng... khi có hành... khi có thức, dựa vào thức mà khởi lên cảm giác vui khổ nội tại.

Này chư Tỳ khưu, các thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?"

"Là vô thường, bạch Thế Tôn."

"Cái gì vô thường, thì là khổ hay lạc?"

"Là khổ, bạch Thế Tôn."

"Đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến đổi, liệu nếu không chấp thủ nó thì có khởi lên cảm giác vui khổ nội tại không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Thọ… tưởng ... hành... thức là thường hay vô thường?"

"Là vô thường, bạch Thế Tôn."

"Cái gì vô thường, thì là khổ hay lạc?"

"Là khổ, bạch Thế Tôn."

"Đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến đổi, liệu nếu không chấp thủ nó thì có khởi lên cảm giác vui khổ nội tại không?"

"Không, thưa Thế Tôn."

"Thấy rõ như vậy ... vị ấy hiểu rằng không còn tiếp tục trạng thái này nữa."

Chú thích

Theo Sớ giải, mệnh đề “kiṃ upādāya” có nghĩa là y cứ hay tựa vào cái gì (kiṃ paṭicca). Theo ngài Bodhi thì cụm từ này bao hàm hai nghĩa là khổ vui, vốn do bản chất của năm uẩn vốn vô thường nên khổ; đồng thời cũng do chấp thủ năm uẩn nên sanh ra khổ vui.

Cụm từ “ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ - khổ vui nội tại” chỉ cho sự vui khổ do cái nhìn chủ quan. Cái khổ tự nhiên do bản chất của pháp hữu vi là cái khổ khách quan. Khổ vui nội tại ở đây chỉ cho vui khổ do cái nhìn của mỗi cá nhân. Đây là một trong những chìa khoá quan trọng đối với hành giả.

Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.

Dưới đây là chánh văn Pāli cùng với bản Việt dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu

I. Nội (Tạp 7, Ðại 2,43b) (S.iii,180)

1-2) Ở Sàvatthi...

3) -- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo, do chấp thủ cái gì, nội lạc, khổ khởi lên?

4) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...,...

5) -- Này các Tỷ-kheo, do có sắc, do chấp thủ sắc, nội lạc, khổ khởi lên.

6-8)... thọ... tưởng... các hành...

9) Do có thức, do chấp thủ thức, nội lạc, khổ khởi lên.

10) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường?

-- Vô thường, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-- Là khổ, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, nội lạc, khổ có thể khởi lên không?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

11-13) ... Thọ... Tưởng... Các hành...

14) -- Thức là thường hay vô thường?

-- Vô thường, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-- Là khổ, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời nội lạc, khổ có thể sanh khởi không?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

15) Do thấy vậy... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".

Sớ Giải

150-158. diṭṭhivaggassa paṭhame kiṃ upādāyāti kiṃ paṭicca. dutiye kiṃ abhinivissāti kiṃ abhinivisitvā, paccayaṃ katvāti attho. tatiyādīsu diṭṭhītiādīni puggalajjhāsayena vuttāni. paṭhamādīni.

Trong bài kinh đầu tiên của Diṭṭhivagga, "kiṃ upādāyā" có nghĩa là "dựa vào điều gì." Trong bài kinh thứ hai, "kiṃ abhinivissā" có nghĩa là "đã bám víu vào điều gì," với ý nghĩa là đã bám chấp và làm cho nó trở thành căn nguyên (paccayaṃ katvā). Trong các bài kinh từ thứ ba trở đi, các từ như "diṭṭhi" (tà kiến) được nói đến theo khuynh hướng của cá nhân (puggalajjhāsayena), nhằm chỉ các quan niệm và quan điểm cá nhân.

Những điều này được đề cập từ bài kinh đầu tiên trở đi.

Ý kiến bạn đọc