Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - Chỗ Đứng Và Hướng Đi  Trong Đời - Kinh Những Hạng Người (Puggalasuttaṃ)

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ - Chỗ Đứng Và Hướng Đi Trong Đời - Kinh Những Hạng Người (Puggalasuttaṃ)

Thứ ba, 18/01/2022, 18:15 GMT+7

Lớp Phật Pháp Buddhadhamma

Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA

Bài học ngày 18.1.2022


Chỗ Đứng Và Hướng Đi Trong Đời

Kinh Những Hạng Người (Puggalasuttaṃ)

(CHƯƠNG III. TƯƠNG ƯNG KOSALA, PHẨM THỨ BA) (S.i, 93)

Người đời thường quan trọng ý nghĩ “ta là ai?”. Người hiểu lời Phật dạy chú trọng “hạnh nghiệp đang làm qua thân khẩu ý” và sẽ dẫn đi về đâu. Nói cách khác nêu chỉ biết về chỗ đứng hiện tại chưa đủ mà phải hiểu hướng đi dẫn đến đích điểm nào. Bài kinh nầy cũng ghi lại lời Đức Phật dạy về khả tính chuyển hoá trong kiếp nhân sinh. Con người là kết quả của nghiệp quá khứ nhưng nghiệp quá khứ không an bài tất cả. Những sở hành qua thân khẩu ý trong kiếp hiện tại mới chính điều cần quan tâm vì sẽ tạo nên hướng đi cho mai hậu.

Sāvatthinidānaṃ.

Tại Sāvatthi.

Atha kho rājā pasenadi kosalo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhagavā etadavoca –

Bấy giờ vua Pasenadi nước Kosala đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với vua Pasenadi:

‘‘cattārome, mahārāja, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro? Tamotamaparāyano, tamojotiparāyano, jotitamaparāyano, jotijotiparāyano’’

Này Ðại vương, có bốn loại người này hiện hữu ở đời. Bốn hạng người gồm những gì? Hạng người từ chỗ tối hướng đến chỗ tối; hạng người từ chỗ tối hướng đến chỗ sáng; hạng người từ chỗ sáng hướng đến chỗ tối; và hạng người từ chỗ sáng hướng đến chỗ sáng.

‘‘Kathañca, mahārāja puggalo tamotamaparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo nīce kule paccājāto hoti, caṇḍālakule vā venakule [veṇakule (sī. syā. kaṃ. pī.)] vā nesādakule vā rathakārakule vā pukkusakule vā dalidde appannapānabhojane kasiravuttike, yattha kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca hoti dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako bavhābādho [bahvābādho (ka.)] kāṇo vā kuṇī vā khañjo vā pakkhahato vā, na lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. Seyyathāpi, mahārāja, puriso andhakārā vā andhakāraṃ gaccheyya, tamā vā tamaṃ gaccheyya, lohitamalā vā lohitamalaṃ gaccheyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo tamotamaparāyano hoti.

Này Ðại vương, thế nào là hạng người từ chỗ tối hướng đến chỗ tối?

Ở đây có người sanh ra trong tầng lớp thấp của xã hội như gia đình chiên đà la, đan tre, săn bắn, đóng xe, đổ rác nghèo khó kham khổ thiếu thốn ăn mặc, thân tướng xấu xí, còm cỏi, bệnh hoạn kinh niên, mù loà bại liệt. Người ấy không có thu nhập được thức ăn, thức uống tốt, vải vóc đủ mặc; không có xe cộ, vòng hoa, hương liệu; những thứ trang điểm; không có đèn đuốc, phòng ốc, nhà cửa tiện nghi.

Người ấy lại làm các ác hạnh với thân, ác hạnh với khẩu, ác hạnh với ý. Với đời sống như vậy thân hoại mạng chung sanh vào cõi khổ, đoạ xứ, địa ngục.

Này Ðại vương, ví như một người đi từ tối tăm này đến tối tăm khác, hay đi từ hắc ám này đến hắc ám khác, hay từ bần uế nầy này đến bần uế khác. Ta nói ví dụ đó chỉ cho hạng người từ chỗ tối đến chỗ tối

‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo tamojotiparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo nīce kule paccājāto hoti, caṇḍālakule vā venakule vā nesādakule vā rathakārakule vā pukkusakule vā dalidde appannapānabhojane kasiravuttike, yattha kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca kho hoti dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako bavhābādho, kāṇo vā kuṇī vā khañjo vā pakkhahato vā, na lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena sucaritaṃ carati, vācāya sucaritaṃ carati, manasā sucaritaṃ carati. So kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. Seyyathāpi, mahārāja, puriso pathaviyā vā pallaṅkaṃ āroheyya, pallaṅkā vā assapiṭṭhiṃ āroheyya, assapiṭṭhiyā vā hatthikkhandhaṃ āroheyya, hatthikkhandhā vā pāsādaṃ āroheyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo tamojotiparāyano hoti.

Này Ðại vương, thế nào là hạng người từ chỗ tối đến chỗ sáng? Ở đây có người sanh ra trong tầng lớp thấp của xã hội như gia đình chiên đà la, đan tre, săn bắn, đóng xe, đổ rác nghèo khó kham khổ thiếu thốn ăn mặc, thân tướng xấu xí, còm cỏi, bệnh hoạn kinh niên, mù loà bại liệt. Người ấy không có thu nhập được thức ăn, thức uống tốt, vải vóc đủ mặc; không có xe cộ, vòng hoa, hương liệu; những thứ trang điểm; không có đèn đuốc, phòng ốc, nhà cửa tiện nghi.

Người ấy lại làm các thiện hạnh với thân, thiện hạnh với khẩu, thiện hạnh với ý. Với đời sống như vậy thân hoại mạng chung sanh vào cõi an lạc, thiên giới.

Này Ðại vương, ví như một người từ bùn đất leo lên chiếc cáng, hay từ kiệu leo lên lưng ngựa, hay từ lưng ngựa leo lên thân voi, hay từ thân voi leo lên lầu cao. Với ví dụ nầy ta muốn chỉ cho người từ chỗ tối đến chỗ sáng.

‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo jotitamaparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo ucce kule paccājāto hoti, khattiyamahāsālakule vā brāhmaṇamahāsālakule vā gahapatimahāsālakule vā, aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe. So ca hoti abhirūpo dassanīyo pāsādiko, paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato, lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.

‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso pāsādā vā hatthikkhandhaṃ oroheyya, hatthikkhandhā vā assapiṭṭhiṃ oroheyya, assapiṭṭhiyā vā pallaṅkaṃ oroheyya, pallaṅkā vā pathaviṃ oroheyya, pathaviyā vā andhakāraṃ paviseyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo jotitamaparāyano hoti.

Này Ðại vương, thế nào là hạng người từ chỗ sáng đến chỗ tối?

Và thưa Ðại vương, thế nào là người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối? Ở đây có số người sanh ra trong gia đình tầng lớp cao như gia đình sát đế lỵ hào môn, hay trong gia đình Bà-la-môn hào môn, hay trong gia đình gia chủ hào môn có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, nhiều tiền của, ngũ cốc. Người ấy có ngoại hình khả ái, thanh tú, với màu da đẹp, mỹ miều. Người ấy có dư thừa thức ăn, thức uống tốt, vải vóc y phục; xe cộ, vòng hoa, hương liệu; những thứ trang điểm; đèn đuốc, phòng ốc, nhà cửa tiện nghi.

Người ấy lại làm các ác hạnh với thân, ác hạnh với khẩu, ác hạnh với ý. Với đời sống nhưng vậy thân hoại mạng chung sanh vào cõi khổ, đoạ xứ, địa ngục.

Ví như một người leo từ lầu cao xuống lưng voi; từ lưng voi xuống lưng ngựa; từ lưng ngựa xuống chiếc cáng, từ chiếc cáng xuống bùn đất. Ta nói ví dụ nầy chỉ cho người từ chỗ sáng đi đến chỗ tối.

‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo jotijotiparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo ucce kule paccājāto hoti, khattiyamahāsālakule vā brāhmaṇamahāsālakule vā gahapatimahāsālakule vā, aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe. So ca hoti abhirūpo dassanīyo pāsādiko, paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato, lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena sucaritaṃ carati, vācāya sucaritaṃ carati, manasā sucaritaṃ carati. So kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.

Seyyathāpi, mahārāja, puriso pallaṅkā vā pallaṅkaṃ saṅkameyya, assapiṭṭhiyā vā assapiṭṭhiṃ saṅkameyya, hatthikkhandhā vā hatthikkhandhaṃ saṅkameyya, pāsādā vā pāsādaṃ saṅkameyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo jotijotiparāyano hoti.

Này Ðại vương, thế nào là hạng người từ chỗ sáng đến chỗ sáng?

Ở đây có số người sanh ra trong gia đình tầng lớp cao như gia đình sát đế lỵ hào môn, hay trong gia đình Bà-la-môn hào môn, hay trong gia đình gia chủ hào môn có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, nhiều tiền của, ngũ cốc. Người ấy có ngoại hình khả ái, thanh tú, với màu da đẹp, mỹ miều. Người ấy có dư thừa thức ăn, thức uống tốt, vải vóc y phục; xe cộ, vòng hoa, hương liệu; những thứ trang điểm; đèn đuốc, phòng ốc, nhà cửa tiện nghi.

Người ấy lại làm các thiện hạnh với thân, thiện hạnh với khẩu, thiện hạnh với ý. Với đời sống như vậy thân hoại mạng chung sanh vào cõi an lạc, thiên giới.

Ví như một người từ chiếc kiệu nầy bước sang chiếc kiệu khác; từ lưng ngựa nầy bước sang lưng ngựa khác, từ lưng voi nầy sang lưng voi khác, từ lầu nầy bước sang lầu khác. Ta nói ví dụ nầy chỉ cho người từ chỗ sáng đi tới chỗ sáng.

Ime kho, mahārāja, cattāro puggalā santo saṃvijjamānā lokasmin’ti.

Nầy Đại vương đó là bốn hạng người có mặt ở đời.

‘‘Daliddo puriso rāja, assaddho hoti maccharī;

Kadariyo pāpasaṅkappo, micchādiṭṭhi anādaro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Akkosati paribhāsati, natthiko hoti rosako.

‘‘Dadamānaṃ nivāreti, yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti nirayaṃ ghoraṃ, tamotamaparāyano.

Này Đại Vương, ở đời

Có người sống khốn khó

Lại xấu bụng, tà kiến

Keo kiết. thiếu niềm tin

Bất kính và mạ lỵ

Sa môn, bà la môn

Những người tu hành khác

Không cho người ăn xin

Còn cản ngăn bố thí

Khi thân hoại mạng chung

Sanh địa ngục thống khổ

Như vậy chính là người

Từ tối tới chỗ tối.

‘‘Daliddo puriso rāja, saddho hoti amaccharī;

Dadāti seṭṭhasaṅkappo, abyaggamanaso naro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Uṭṭhāya abhivādeti, samacariyāya sikkhati.

‘‘Dadamānaṃ na vāreti, yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti tidivaṃ ṭhānaṃ, tamojotiparāyano.

Này Đại Vương, ở đời

Có người sống khốn khó

Tốt bụng, tâm an định

Biết cho, có niềm tin

Biết cúng kính, chào đón

Sa môn, bà la môn

Những người tu hành khác

Biết huân tu chánh hạnh

Không ngăn cản bố thí

Cho những người xin ăn

Khi thân hoại mạng chung

Sanh lạc cảnh, thiên giới

Như vậy chính là người

Từ tối tới chỗ sáng.

‘‘Aḍḍho ce puriso rāja, assaddho hoti maccharī;

Kadariyo pāpasaṅkappo, micchādiṭṭhi anādaro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Akkosati paribhāsati, natthiko hoti rosako.

‘‘Dadamānaṃ nivāreti, yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti nirayaṃ ghoraṃ, jotitamaparāyano.

Này Đại Vương, ở đời

Có người sống giàu sang

Nhưng xấu bụng, tà kiến

Keo kiết. thiếu niềm tin

Bất kính và mạ lỵ

Sa môn, bà la môn

Những người tu hành khác

Không cho người ăn xin

Còn cản ngăn bố thí

Khi thân hoại mạng chung

Sanh địa ngục thống khổ

Như vậy chính là người

Từ sáng tới chỗ tối.

‘‘Aḍḍho ce puriso rāja, saddho hoti amaccharī;

Dadāti seṭṭhasaṅkappo, abyaggamanaso naro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Uṭṭhāya abhivādeti, samacariyāya sikkhati.

‘‘Dadamānaṃ na vāreti, yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti tidivaṃ ṭhānaṃ, jotijotiparāyano’’ti.

Này Đại Vương, ở đời

Có người sống giàu sang

Lại tốt bụng, an định

Biết cho, có niềm tin

Biết cúng kính, chào đón

Sa môn, bà la môn

Những người tu hành khác

Biết huân tu chánh hạnh

Không ngăn cản bố thí

Cho những người xin ăn

Khi thân hoại mạng chung

Sanh lạc cảnh, thiên giới

Như vậy chính là người

Từ sáng tới chỗ sáng.


Tamotamaparāyano Hạng người từ chỗ tối hướng đến chỗ tối;
Tamojotiparāyano Hạng người từ chỗ tối hướng đến chỗ sáng;
Jotitamaparāyano Hạng người từ chỗ sáng hướng đến chỗ tối;
Jotijotiparāyano Hạng người từ chỗ sáng hướng đến chỗ sáng.

Chữ parāyanạ dịch là hướng đến trong hai cụm từ hướng đến chỗ tối (tamoparāyanạ), hướng đến chỗ sáng (jotiparāyanạ) bao gồm sở hành trong hiện kiếp và lực đẩy đến cảnh giới kiếp sau.

Đức Phật không dạy nên phân biệt giai cấp nhưng Ngài chỉ rỏ sự bất hạnh và diễm phúc trong kiếp hiện tại là do nghiệp đã tạo. Và khi Phật dạy “chính hành vi thiện ác khiến người thấp hèn hay cao quý” là một điều khác hoàn toàn với những định kiến về giai cấp xã hội.

Tỳ kheo Giác Đẳng dịch và biên soạn giáo trình

-ooOoo-

1. Puggalasuttaṃ [Mūla]

132. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho rājā pasenadi kosalo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘cattārome, mahārāja, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro? Tamotamaparāyano, tamojotiparāyano, jotitamaparāyano, jotijotiparāyano’’.

‘‘Kathañca, mahārāja puggalo tamotamaparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo nīce kule paccājāto hoti, caṇḍālakule vā venakule [veṇakule (sī. syā. kaṃ. pī.)] vā nesādakule vā rathakārakule vā pukkusakule vā dalidde appannapānabhojane kasiravuttike, yattha kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca hoti dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako bavhābādho [bahvābādho (ka.)] kāṇo vā kuṇī vā khañjo vā pakkhahato vā, na lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.

‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso andhakārā vā andhakāraṃ gaccheyya, tamā vā tamaṃ gaccheyya, lohitamalā vā lohitamalaṃ gaccheyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo tamotamaparāyano hoti.

‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo tamojotiparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo nīce kule paccājāto hoti, caṇḍālakule vā venakule vā nesādakule vā rathakārakule vā pukkusakule vā dalidde appannapānabhojane kasiravuttike, yattha kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca kho hoti dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako bavhābādho, kāṇo vā kuṇī vā khañjo vā pakkhahato vā, na lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena sucaritaṃ carati, vācāya sucaritaṃ carati, manasā sucaritaṃ carati. So kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.

‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso pathaviyā vā pallaṅkaṃ āroheyya, pallaṅkā vā assapiṭṭhiṃ āroheyya, assapiṭṭhiyā vā hatthikkhandhaṃ āroheyya, hatthikkhandhā vā pāsādaṃ āroheyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo tamojotiparāyano hoti.

‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo jotitamaparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo ucce kule paccājāto hoti, khattiyamahāsālakule vā brāhmaṇamahāsālakule vā gahapatimahāsālakule vā, aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe. So ca hoti abhirūpo dassanīyo pāsādiko, paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato, lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.

‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso pāsādā vā hatthikkhandhaṃ oroheyya, hatthikkhandhā vā assapiṭṭhiṃ oroheyya, assapiṭṭhiyā vā pallaṅkaṃ oroheyya, pallaṅkā vā pathaviṃ oroheyya, pathaviyā vā andhakāraṃ paviseyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo jotitamaparāyano hoti.

‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo jotijotiparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo ucce kule paccājāto hoti, khattiyamahāsālakule vā brāhmaṇamahāsālakule vā gahapatimahāsālakule vā, aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe. So ca hoti abhirūpo dassanīyo pāsādiko, paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato, lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena sucaritaṃ carati, vācāya sucaritaṃ carati, manasā sucaritaṃ carati. So kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.

‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso pallaṅkā vā pallaṅkaṃ saṅkameyya, assapiṭṭhiyā vā assapiṭṭhiṃ saṅkameyya, hatthikkhandhā vā hatthikkhandhaṃ saṅkameyya, pāsādā vā pāsādaṃ saṅkameyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo jotijotiparāyano hoti. Ime kho, mahārāja, cattāro puggalā santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti. Idamavoca...pe...

‘‘Daliddo puriso rāja, assaddho hoti maccharī;

Kadariyo pāpasaṅkappo, micchādiṭṭhi anādaro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Akkosati paribhāsati, natthiko hoti rosako.

‘‘Dadamānaṃ nivāreti, yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti nirayaṃ ghoraṃ, tamotamaparāyano.

‘‘Daliddo puriso rāja, saddho hoti amaccharī;

Dadāti seṭṭhasaṅkappo, abyaggamanaso naro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Uṭṭhāya abhivādeti, samacariyāya sikkhati.

‘‘Dadamānaṃ na vāreti [na nivāreti (sī.)], yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti tidivaṃ ṭhānaṃ, tamojotiparāyano.

‘‘Aḍḍho ce [aḍḍho ve (pī. ka.)] puriso rāja, assaddho hoti maccharī;

Kadariyo pāpasaṅkappo, micchādiṭṭhi anādaro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Akkosati paribhāsati, natthiko hoti rosako.

‘‘Dadamānaṃ nivāreti, yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti nirayaṃ ghoraṃ, jotitamaparāyano.

‘‘Aḍḍho ce puriso rāja, saddho hoti amaccharī;

Dadāti seṭṭhasaṅkappo, abyaggamanaso naro.

‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake;

Uṭṭhāya abhivādeti, samacariyāya sikkhati.

‘‘Dadamānaṃ na vāreti, yācamānāna bhojanaṃ;

Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa;

Upeti tidivaṃ ṭhānaṃ, jotijotiparāyano’’ti.

1. Puggalasuttavaṇṇanā [Aṭṭhakathā]

132. Tatiyavaggassa paṭhame ‘‘nīce kule paccājāto’’tiādikena tamena yuttoti tamo. Kāyaduccaritādīhi puna nirayatamūpagamanato tamaparāyaṇo. Iti ubhayenapi khandhatamova kathito hoti. ‘‘Ucce kule paccājāto’’tiādikena jotinā yuttato joti, ālokībhūtoti vuttaṃ hoti. Kāyasucaritādīhi puna saggūpapattijotibhāvūpagamanato jotiparāyaṇo. Iminā nayena itarepi dve veditabbā.

Venakuleti vilīvakārakule. Nesādakuleti migaluddakādīnaṃ kule. Rathakārakuleti cammakārakule. Pukkusakuleti pupphachaḍḍakakule. Kasiravuttiketi dukkhavuttike. Dubbaṇṇoti paṃsupisācako viya jhāmakhāṇuvaṇṇo. Duddasikoti vijātamātuyāpi amanāpadassano. Okoṭimakoti lakuṇḍako. Kāṇoti ekakkhikāṇo vā ubhayakkhikāṇo vā. Kuṇīti ekahatthakuṇī vā ubhayahatthakuṇī vā. Khañjoti ekapādakhañjo vā ubhayapādakhañjo vā. Pakkhahatoti hatapakkho pīṭhasappī. Padīpeyyassāti telakapallakādino padīpaupakaraṇassa. Evaṃ kho, mahārājāti ettha eko puggalo bahiddhā ālokaṃ adisvā mātukucchismiṃyeva kālaṃ katvā apāyesu nibbattanto sakalaṃ kappampi saṃsarati, sopi tamotamaparāyaṇova. So pana kuhakapuggalo bhaveyya. Kuhakassa hi evarūpā nibbatti hotīti vuttaṃ.

Ettha ca ‘‘nīce kule paccājāto hoti caṇḍālakule vā’’tiādīhi āgamanavipatti ceva pubbuppannapaccayavipatti ca dassitā. Daliddetiādīhi pavattapaccayavipatti. Kasiravuttiketiādīhi ājīvupāyavipatti. Dubbaṇṇotiādīhi attabhāvavipatti. Bavhābādhotiādīhi dukkhakāraṇasamāyogo. Na lābhītiādīhi sukhakāraṇavipatti ceva upabhogavipatti ca. Kāyena duccaritantiādīhi tamaparāyaṇabhāvassa kāraṇasamāyogo. Kāyassa bhedātiādīhi samparāyikatamūpagamo. Sukkapakkho vuttapaṭipakkhanayena veditabbo.

Akkosatīti dasahi akkosavatthūhi akkosati. Paribhāsatīti, ‘‘kasmā tiṭṭhatha? Kiṃ tumhehi amhākaṃ kasikammādīni katānī’’tiādīhi? Paribhavavacanehi paribhāsati. Rosakoti ghaṭṭako. Abyaggamanasoti ekaggacitto. Paṭhamaṃ.

Ý kiến bạn đọc