- 13913 S. Post Oak Rd, Houston TX 77045
- Phone: (281) 838-0535. Fax: (832) 550-2889
- Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Đẳng
- Email: phapluan@gmail.com
- Web: chuaphapluan.com
- Xem bản đồ
Môn học: TƯƠNG ƯNG BỘ – SAṂYUTTANIKĀYA
Bài học ngày 25.2.2025
CHÁNH NIỆM LÀ BIẾT RÕ HIỆN TẠI
Kinh Upavāṇa Và Pháp Thiết Thực Hiện Tiền (upavāṇasandiṭṭhikasuttaṃ)
Chương XXXV. Tương Ưng Sáu Xứ – Phẩm Migajāla (SN.35.70)
Chánh niệm là sự tỉnh táo ghi nhận đối với những gì đang xảy ra đối với tâm, cảnh trong hiện tại. Chính điều này tạo nên hiệu ứng thấy biết trực tiếp và thiết thực hiện tiền. Vì chánh niệm là trọng điểm của thiền quán (vipassana) nên được gọi là trái tim của giáo pháp. Không hiểu và huân tu chánh niệm thì chưa thấy được giá trị đích thực của Phật Pháp.
Kinh Văn
70. atha kho āyasmā upavāṇo yena bhagavā tenupasaṅkami ... pe ... ekamantaṃ nisinno kho āyasmā upavāṇo bhagavantaṃ etadavoca — “‘sandiṭṭhiko dhammo, sandiṭṭhiko dhammo’ti, bhante, vuccati. kittāvatā nu kho, bhante, sandiṭṭhiko dhammo hoti, akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti?
“idha pana, upavāṇa, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā rūpappaṭisaṃvedī ca hoti rūparāgappaṭisaṃvedī ca. santañca ajjhattaṃ rūpesu rāgaṃ ‘atthi me ajjhattaṃ rūpesu rāgo’ti pajānāti. yaṃ taṃ, upavāṇa, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā rūpappaṭisaṃvedī ca hoti rūparāgappaṭisaṃvedī ca. santañca ajjhattaṃ rūpesu rāgaṃ ‘atthi me ajjhattaṃ rūpesu rāgo’ti pajānāti. evampi kho, upavāṇa, sandiṭṭhiko dhammo hoti akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti ... pe ....
“puna caparaṃ, upavāṇa, bhikkhu jivhāya rasaṃ sāyitvā rasappaṭisaṃvedī ca hoti rasarāgappaṭisaṃvedī ca. santañca ajjhattaṃ rasesu rāgaṃ ‘atthi me ajjhattaṃ rasesu rāgo’ti pajānāti. yaṃ taṃ, upavāṇa, bhikkhu jivhāya rasaṃ sāyitvā rasappaṭisaṃvedī ca hoti rasarāgappaṭisaṃvedī ca. santañca ajjhattaṃ rasesu rāgaṃ ‘atthi me ajjhattaṃ rasesu rāgo’ti pajānāti. evampi kho, upavāṇa, sandiṭṭhiko dhammo hoti akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti ... pe ....
“puna caparaṃ, upavāṇa, bhikkhu manasā dhammaṃ viññāya dhammappaṭisaṃvedī ca hoti dhammarāgappaṭisaṃvedī ca. santañca ajjhattaṃ dhammesu rāgaṃ ‘atthi me ajjhattaṃ dhammesu rāgo’ti pajānāti. yaṃ taṃ, upavāṇa, bhikkhu manasā dhammaṃ viññāya dhammappaṭisaṃvedī ca hoti dhammarāgappaṭisaṃvedī ca. santañca ajjhattaṃ dhammesu rāgaṃ ‘atthi me ajjhattaṃ dhammesu rāgo’ti pajānāti. evampi kho, upavāṇa, sandiṭṭhiko dhammo hoti ... pe ... paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti ... pe ....
“idha pana, upavāṇa, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā rūpappaṭisaṃvedī ca hoti, no ca rūparāgappaṭisaṃvedī. asantañca ajjhattaṃ rūpesu rāgaṃ ‘natthi me ajjhattaṃ rūpesu rāgo’ti pajānāti. yaṃ taṃ, upavāṇa, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā rūpappaṭisaṃvedīhi kho hoti, no ca rūparāgappaṭisaṃvedī. asantañca ajjhattaṃ rūpesu rāgaṃ ‘natthi me ajjhattaṃ rūpesu rāgo’ti pajānāti. evampi kho, upavāṇa, sandiṭṭhiko dhammo hoti, akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti ... pe ....
“puna caparaṃ, upavāṇa, bhikkhu jivhāya rasaṃ sāyitvā rasappaṭisaṃvedīhi kho hoti, no ca rasarāgappaṭisaṃvedī. asantañca ajjhattaṃ rasesu rāgaṃ ‘natthi me ajjhattaṃ rasesu rāgo’ti pajānāti ... pe ....
“puna caparaṃ, upavāṇa, bhikkhu manasā dhammaṃ viññāya dhammappaṭisaṃvedīhi kho hoti, no ca dhammarāgappaṭisaṃvedī. asantañca ajjhattaṃ dhammesu rāgaṃ ‘natthi me ajjhattaṃ dhammesu rāgo’ti pajānāti. yaṃ taṃ, upavāṇa, bhikkhu manasā dhammaṃ viññāya dhammappaṭisaṃvedīhi kho hoti, no ca dhammarāgappaṭisaṃvedī. asantañca ajjhattaṃ dhammesu rāgaṃ ‘natthi me ajjhattaṃ dhammesu rāgo’ti pajānāti. evampi kho, upavāṇa, sandiṭṭhiko dhammo hoti, akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī”ti. aṭṭhamaṃ.
Bấy giờ Tôn giả Upavāṇa đi đến Đức Thế Tôn... và bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, được nói là: ‘Pháp thiết thực hiện tiền, Pháp thiết thực hiện tiền’. Điều này có nghĩa là gì, bạch Thế Tôn? Pháp như thế nào là thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để thấy biết, hướng nội và hướng thượng, thể nghiệm bởi người có trí?”
[Đức Phật đáp:]
“Này Upavāṇa, ở đây một tỳ khưu khi thấy sắc với mắt; trải nghiệm sắc ấy cũng như tham dục đối với sắc. Vị ấy biết rõ sự trạng: ‘nội tâm có tham dục đối với sắc này’. Này Upavāṇa, như vậy là Pháp thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để thấy biết, hướng nội và hướng thượng, thể nghiệm bởi người có trí”.
“Này Upavāṇa, tương tự như vậy, khi nghe một âm thanh bằng tai... khi nhận biết một pháp bằng ý; trải nghiệm cảnh pháp ấy cũng như tham dục đối với cảnh pháp ấy. Vị ấy biết rõ sự trạng: ‘nội tâm có tham dục đối với cảnh pháp này’. Này Upavāṇa, như vậy là Pháp thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để thấy biết, hướng nội và hướng thượng, thể nghiệm bởi người có trí.
“Này Upavāṇa, ở đây một tỳ khưu khi thấy sắc với mắt; trải nghiệm sắc ấy mà không khởi lên tham dục đối với sắc. Vị ấy biết rõ sự trạng: ‘nội tâm có không có tham dục đối với sắc này’. Này Upavāṇa, như vậy là Pháp thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để thấy biết, hướng nội và hướng thượng, thể nghiệm bởi người có trí”.
“Này Upavāṇa, tương tự như vậy, khi nghe một âm thanh bằng tai... khi nhận biết một pháp bằng ý; trải nghiệm cảnh pháp ấy mà không có tham dục đối với cảnh pháp ấy. Vị ấy biết rõ sự trạng: ‘nội tâm không có tham dục đối với cảnh pháp này’. Này Upavāṇa, như vậy là Pháp thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để thấy biết, hướng nội và hướng thượng, thể nghiệm bởi người có trí.
Chú Thích
Upavāṇa sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn giàu có tại thành Xá-vệ (Sāvatthi). Mặc dù sống trong sự sung túc, ngài đã vô cùng xúc động khi chứng kiến vẻ uy nghiêm của Đức Phật trong lễ cúng dường tại Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetavana Vihāra). Ngay sau đó, Ngài xuất gia và không bao lâu đã chứng đắc A-la-hán với lục thông. Trước khi Tôn giả Ānanda được chọn làm thị giả chính của Đức Phật, Upavāṇa đã đảm nhận nhiệm vụ này trong một thời gian; được biết là tận tụy, chu đáo đối với Đức Phật. Tôn giả Upavāṇa là một tấm gương về lòng tận tụy và sự phục vụ không mệt mỏi đối với Đức Phật. Hành trình từ một Bà-la-môn giàu có đến một A-la-hán, vai trò thị giả của ông, cùng với những công đức trong tiền kiếp, đều minh chứng cho sức mạnh của đức tin, lòng khiêm hạ và trí tuệ.
Thuật ngữ “Sandiṭṭhiko” là một phần trong công thức tiêu chuẩn để quán chiếu về Giáo Pháp (Dhamma), chỉ thiếu thuật ngữ đầu tiên “svākkhāto” (khéo thuyết giảng). Câu đầy đủ là: Svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opanayiko paccattaṃ veditabbo viññūhī - "Pháp do Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để thấy biết, hướng nội và hướng thượng, thể nghiệm bởi người có trí”.
Theo Sớ giải thì bài kinh này có hai phần:
Phần đầu: Sự quán chiếu của bậc hữu học (sekha), tức là những người đang trên con đường tu tập nhưng chưa hoàn toàn giác ngộ.
Phần sau: Sự quán chiếu của bậc vô học (asekha), tức là bậc Arahant, đã đoạn tận tất cả phiền não và không còn tham ái đối với bất kỳ pháp nào.
Dù giải thích như vậy, nhưng đối với hành giả tu tập thì dù là phàm nhân vẫn có lúc đối với cảnh khởi tham luyến hoặc không tham luyến.
Sớ Giải
70. aṭṭhame rūpappaṭisaṃvedīti nīlapītādibhedaṃ ārammaṇaṃ vavatthāpento rūpaṃ paṭisaṃviditaṃ karoti, tasmā rūpappaṭisaṃvedī nāma hoti. rūparāgappaṭisaṃvedīti kilesassa atthibhāveneva pana rūparāgaṃ paṭisaṃviditaṃ karoti nāma, tasmā rūparāgappaṭisaṃvedīti vuccati. sandiṭṭhikotiādīni visuddhimagge vuttatthāneva. no ca rūparāgappaṭisaṃvedīti kilesassa natthibhāveneva na rūparāgaṃ paṭisaṃviditaṃ karoti nāma, tasmā “no ca rūparāgappaṭisaṃvedī”ti vuccati. imasmiṃ sutte sekhāsekhānaṃ paccavekkhaṇā kathitā.
70. Bài kinh số 8
Rūpappaṭisaṃvedī: Nghĩa là người nhận biết rõ các sắc pháp như xanh vàng, v.v., khi xác định đối tượng của mình. Do đó, vị ấy được gọi là "rūpappaṭisaṃvedī" (người nhận biết sắc pháp).
Rūparāgappaṭisaṃvedī: Khi có sự tồn tại của phiền não (kilesa), nếu vị ấy nhận biết có tham ái đối với sắc pháp (rūparāga), thì gọi là "rūparāgappaṭisaṃvedī" (người nhận biết tham ái đối với sắc pháp).
Các thuật ngữ như sandiṭṭhiko (Pháp được thấy ngay hiện tại) v.v. đã được giải thích trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo).
No ca rūparāgappaṭisaṃvedī: Khi không có phiền não (kilesa), không nhận biết có tham ái đối với sắc pháp, thì được gọi là "no ca rūparāgappaṭisaṃvedī" (người không nhận biết tham ái đối với sắc pháp).
Trong bài kinh này, sự quán chiếu của bậc Sekha (bậc hữu học) và Asekha (bậc vô học, đã giải thoát hoàn toàn) được trình bày.
Tỳ khưu Giác Đẳng dịch và biên soạn.
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
70.VIII. Upavàna (1) (S.iv,41)
1) ...
2) Rồi Tôn giả Upavàna đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Upavàna bạch Thế Tôn:
-- "Thiết thực hiện tại, thiết thực hiện tại (Sanditthika)", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người có trí tự mình giác hiểu?
4) -- Ở đây, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc và cảm thọ tham sắc có nội tham đối với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các sắc". Cho đến chừng nào sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc và cảm thọ tham sắc và có nội tham đối với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các sắc". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người trí tự mình giác hiểu.
5-6) Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng... sau khi mũi ngửi hương...
7-8) Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
9) Lại nữa, này Upavàna, sau khi ý nhận biết pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp và cảm thọ tham pháp và có nội tham đối với các pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các pháp". Cho đến chừng nào sau khi ý nhận biết pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp và cảm thọ tham pháp và có nội tham đối với các pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các pháp". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người trí tự mình giác hiểu.
10) Ở đấy, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc, nhưng không cảm thọ tham sắc và không có nội tham đối với sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với sắc". Cho đến chừng nào, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc, nhưng không cảm thọ tham sắc và không có nội tham đối với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với các sắc". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người trí tự mình giác hiểu.
11-14) Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
15) Lại nữa, này Upavàna, sau khi ý nhận thức pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp nhưng không cảm thọ tham pháp và không có nội tham đối với pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với pháp". Cho đến chừng nào, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi ý nhận thức pháp, cảm thọ pháp nhưng không cảm thọ tham pháp và không có nội tham đối với pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với pháp". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ những người có trí tự mình giác hiểu.